Bài hát và suy niệm (27.10.2024 – Chúa Nhật XXX Thường Niên năm B)

Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19

Nghe giảng


NL: DẪN BƯỚC CON ĐI

ĐC: NGÀY VỀ

DL: LỜI DÂNG

HL: ĐỪNG BỎ CON CHÚA ƠI

KL: CHUỖI NGỌC VÀNG KINH

Lời Chúa: Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc 10,46-52


Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô (Mc 10,46-52)

46 Khi ấy, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, anh ta tên là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. 47 Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng : “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !” 48 Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng : “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !” 49 Đức Giê-su đứng lại và nói : “Gọi anh ta lại đây !” Người ta gọi anh mù và bảo : “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy !” 50 Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su. 51 Người hỏi : “Anh muốn tôi làm gì cho anh ?” Anh mù đáp : “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” 52 Người nói : “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.

Xin cho con được trông thấy (27.10.2024)

Chúa Giêsu đang dẫn đầu các môn đệ lên Giêrusalem, sau khi Người đã ba lần báo cho các ông biết về việc Người đến đó để chịu Cuộc Thương Khó. Người không chỉ đi với các môn đệ mà có cả một đám đông theo Người.

Khi các ngài vừa ra khỏi thành Giêricô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, nghe biết có Chúa Giêsu đang đi qua, anh ta liền kêu lớn tiếng xin Người thương xót anh.

Người ta không biết tên người mù là gì, chỉ gọi anh là con ông Ti-mê. Vì không thấy đường nên anh chỉ ngồi một chỗ cố định bên vệ đường ngoài thành Giêricô để xin ăn. Có thể thấy thân phận của anh mù là một người bị bỏ rơi, bị đẩy ra ngoài lề xã hội.

Hẳn là trong khi ngồi xin ăn, anh mù đã được nghe người ta bàn tán nhiều về Đức Giêsu, nên khi nghe biết Chúa Giêsu đang đi ngang qua đó, anh không thể bỏ lỡ dịp này. Nhưng anh không thể chạy đến với Chúa Giêsu vì anh không thấy đường, mà cũng chẳng có ai giúp anh việc ấy. Cách duy nhất có thể giúp anh đến được với Chúa Giêsu là anh phải kêu tới Người. Anh đã lớn tiếng kêu cầu Chúa Giêsu. Những người trong đám đông nạt nộ anh, bắt anh phải im đi. Anh đã không chịu im, mà càng lớn tiếng kêu lên cầu cứu Chúa Giêsu, vì anh tin Người chính là Đấng Messia, Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu dân Israel, đấng sẽ cứu anh : “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”.

Niềm tin và sự cố gắng của anh mù đã có kết quả : Chúa Giêsu đã nghe tiếng anh. Người đã dừng lại, gọi anh đến. Không chậm trễ, anh liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Người. Một thái độ dứt khoát từ bỏ quá khứ và con người cũ. Chúa Giêsu hỏi anh, muốn chính anh nói điều anh cần : “Anh muốn Ta làm gì cho anh?”. Anh đã gọi Chúa Giêsu là Thầy và xin Người điều tốt nhất và cần nhất cho anh lúc này : “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.

Chúa Giêsu chữa cho cả đôi mắt của thân xác và linh hồn anh đều đã được sáng. Anh người mù bây giờ đã hết mù và anh đi theo Chúa ngay.

Đọc bài Tin Mừng hôm nay, người Kitô hữu rút ra được những bài học quý giá và thiết thực sau :

– Người mù muốn đến với Chúa, dù có những người ngăn cản, nhưng anh vẫn không chịu thua. Đức tin của anh vững vàng. Anh can đảm, cương quyết, kiên trì và cố gắng hết sức để đến được với Chúa Giêsu.

Ngày nay cũng có những người muốn tìm đến với Chúa, nhưng đã có những cản trở, thậm chí là ngăn cấm : những trẻ em trong gia đình có đạo bị cha mẹ bắt học thêm môn này khoá kia mà không cho đi học giáo lý.

Những vinh hoa phú quý thế gian luôn là những lực mạnh mẽ nhất ngăn cản con người đến với Thiên Chúa : những nhân viên bị ràng buộc bởi điều lệ tổ chức này nọ, nếu công khai theo đạo thì sẽ không được bố trí vào các vị trí lãnh đạo. Các cách làm ăn lươn lẹo bất chính mau có siêu lợi nhuận hơn là chăm chỉ chân thật “lượm bạc cắc”.

– Khi anh mù được Chúa Giêsu gọi, anh liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu”. Đối với người Do Thái, áo choàng là người mặc áo ấy. Liệng áo choàng đứng dậy là một thái độ dứt khoát không quay lại quá khứ và con người cũ nữa.

Chúa Giêsu đã nói : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34). Các tông đồ khi được Chúa Giêsu gọi, như người thu thuế Matthêu, cũng dứt khoát đứng dậy bỏ mọi sự mà theo Chúa. Kitô hữu chúng ta ngày nay có sẵn sàng thay đổi cách suy nghĩ, cách sống, để thực hành theo phương châm phục vụ, hy sinh tinh thần và vật chất (cũng chính là những thứ Chúa đã ban cho chúng ta) để giúp đỡ anh em và đóng góp vào việc xây dựng Hội Thánh không ?

Chúa lôi kéo, mời gọi các Kitô hữu tham gia những lớp học Lời Chúa, nhưng có rất nhiều lý do cản trở họ, như không có thời gian (vì dành cho những thói quen giải trí hết rồi), thậm chí ngại đi học chỉ vì … lười. Họ có đủ dũng khí dẹp bỏ những thú tiêu khiển vô bổ để học hỏi, tìm hiểu Lời Chúa, từ đó biết yêu mến và sống theo Lời Chúa không ?

– Bổn phận hàng đầu của người Kitô hữu là giới thiệu Chúa với những anh em chưa biết Ngài. Tôi sẽ là nhịp cầu để dẫn những anh em đó đến với Chúa, hay tôi lại là nhịp cầu đã gẫy cản trở những người có thiện chí đến với Ngài ?

– Các môn đệ theo Chúa Giêsu ba năm, luôn được Chúa dạy dỗ. Ba lần nghe Người nói về Cuộc Thương Khó Người phải chịu, các ông cũng chỉ nghĩ tới những quyền lợi chức tước sẽ được hưởng khi Thầy mình vinh quang. Các ông không hề nhận ra Chúa Giêsu là đấng Messia phục vụ, là Người tôi tớ hiền lành và đau khổ mà Ngôn sứ Isaia đã nói đến.

Anh con ông Ti-mê mù về thể lý, nhưng rất sáng về tâm linh. Anh đã nhận ra Chúa Giêsu chính là Đấng sẽ cứu anh cả xác lẫn hồn, nên anh đã quyết tâm theo Người. Anh đúng là một trong những người mà Thiên Chúa đã chọn để mặc khải mầu nhiệm Nước Trời, vì anh chính là người bé nhỏ, bần cùng, đau khổ. Anh chẳng có gì hết.

Là Kitô hữu, liệu chúng ta có luôn nhận ra Chúa trong vũ trụ bao la kỳ diệu, trong thiên nhiên xinh đẹp, nhất là trong mỗi người anh em của chúng ta không ?

Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời mỗi người chúng con. Xin cho chúng con biết siêng năng lắng nghe, học hỏi và suy gẫm Lời Chúa, để Lời Chúa mở mắt thể xác và tâm hồn cho chúng con, cho chúng con thấy Chúa, tin Chúa, nhất là thấy Chúa trong anh chị em của chúng con. Xin Chúa biến đổi chúng con nên con người mới như Chúa đã biến đổi anh mù thành Giêricô. Amen.

Jos. NM Tưởng

Lòng Tin Muốn

Khi Đức Giêsu đến Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. Anh ấy bị mù chẳng nhìn thấy gì nên lúc nào cũng nghe nghe ngóng ngóng. Trời cho người mù mắt lại thính cái tai, thoáng nghe thấy đám đông đi qua, anh đã hỏi ngay xem có chuyện gì. Họ mới chỉ báo cho anh là có “Đức Giêsu Nadarét đang đi qua. Anh vội kêu toáng lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10,47). Những người sáng mắt chỉ biết đó là ông Giêsu Nadaret, còn anh mù này lại “sáng” từ bên trong. Điều hay ở đây là anh nhận ra và kêu cứu Ngài bằng danh hiệu của Đấng Mêsia, “Đấng sẽ mở mắt cho người mù (Is 35,5), nên mới vừa xin vừa tuyên xưng như vậy. Mặc cho họ quát nạt cản trở, anh càng la to hơn, khiến Đức Giêsu dừng lại, Ngài cho gọi anh đến hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10,51a). Anh tỏ bày điều ước của mình mà xin với Ngài. Ngay tức khắc Ngài cho anh nhìn thấy được và Ngài khẳng định “lòng tin” của anh đã cứu chữa anh. Vâng, bởi lòng muốn tha thiết và đức tin mạnh mẽ mà anh được đổi đời. Anh đang chìm trong bóng tối bỗng được nhìn mọi người mọi vật rõ ràng sáng tươi, anh còn bắt đầu một tương lai tươi sáng hơn nữa và đi theo Người trên con đường Người đi.

Lòng muốn và đức tin mạnh mẽ đã giúp anh mù vượt qua những rào cản, làm khó dễ của một số người mà đến với Chúa, để có “cuộc gặp gỡ hồng phúc” và anh được chữa lành. Anh trở về trong ánh sáng mới và gắn bó đi theo Chúa luôn. Đức Giêsu có thêm một môn đệ mới.

Ngày nay chúng con, những người sáng con mắt thể lý nhưng nhiều khi lại mù tối tâm linh, trong đường đi lối sống nên không nhận ra, không “thấy” Chúa và cũng chẳng thấy anh em. “Kẻ không thấy lại được thấy, còn kẻ thấy lại hóa đui ”. (Ga 9,38b).

   Lạy Chúa! xin cho con luôn vững tin có Chúa trong mọi hoàn cảnh, biến cố cuộc đời. Xin cho con luôn thiết tha tìm gặp và gắn bó với Chúa. Chúa sẽ dắt dìu con đi qua đêm đen, đưa con tới miền ánh sáng huy hoàng của tình yêu Chúa. Con sẽ hân hoan bước theo Chúa từng ngày, vừa đi vừa ca khen Thiên Chúa là Đấng cứu độ con.

Én Nhỏ

 

***

MỤC LỤC 

  1. Cặp mắt tâm hồn.
  2. Nhìn cái tốt
  3. Rào cản.
  4. Xin cho con được sáng – ViKiNi
  5. Mù loà và mù quáng – Lm. Ignatiô Trần Ngà.
  6. Sáng đôi mắt đức tin – Thiên Phúc.
  7. Ngọn đèn cho thân xác.
  8. Trở nên Bartimê.
  9. Thiên Chúa thương cứu con người
  10. Chúa cho người mù được thấy.
  11. “Xin cho con được thấy”.
  12. Mù có phải là bất hạnh không?.
  13. Mù lòa.
  14. Thiên Chúa, Đấng chuyên gia chữa lành.
  15. Đôi mắt Đức Tin.
  16. Xin cho con được thấy – Hiếu Nguyễn.
  17. “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”.
  18. Can đảm – Lm. Vũ Đình Tường.
  19. Mù sương – Lm. Vũ Đình Tường.
  20. Vỉa hè – Lm. Vũ Đình Tường.
  21. Niềm tin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
  22. Ôi lạy Chúa, xin mở cho con đôi mắt
  23. Chúa Nhật 30 Thường Niên.
  24. Người mù.
  25. Xin thương xót tôi.
  26. Lòng thương – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm..
  27. Tới nguồn sự sáng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
  28. Chúa chữa anh mù Bactimê.
  29. Chúa Nhật 30 Thường Niên.
  30. Lòng tin của anh đã cứu chữa anh!.
  31. Lòng tin của anh mù.
  32. “Đức tin của anh đã cứu anh” – Yvon Daigneault.
  33. Đui chột – Lm. Minh Anh.
  34. Kể cả người mù cũng thấy – Charles E. Miller.
  35. Suy niệm của Lm. Nguyễn Thái
  36. Suy niệm của Achille Degeest.
  37. Tin, thấy và đi theo.
  38. Mù dắt mù.
  39. Nhìn cái tốt – Gm. Arthur Tonne.
  40. Suy niệm của Anmai, CSsR..
  41. Đức tin của con đã cứu con – Noel Quesson.
  42. Mù loà.
  43. Khát vọng chính đáng.
  44. Chúa Thánh Thần.
  45. Tin tưởng.
  46. Ước ao được nhìn thấy.
  47. Sinh viên y khoa.
  48. Mù loà.
  49. Chúa Nhật 30 Thường Niên.
  50. Lòng tin.
  51. Sự mù loà.
  52. Vất bỏ.
  53. Câu chuyện.
  54. Cứ xin sẽ được, cứ gõ sẽ mở cho…
  55. Người tàn tật.
  56. Suy niệm của JKN.
  57. Xin cho con được thấy – Lm. Minh Vận.
  58. Đức Giêsu chữa lành người mù ở Giêrikhô.
  59. Chú giải của Noel Quesson.
  60. Chú giải mục vụ của William Barclay.
  61. Con mắt Đức tin – Trầm Thiên Thu.
  62. Xin cho được nhìn thấy.

1. Cặp mắt tâm hồn

Một người vô thần hỏi một người Ả rập đang ngồi cầu nguyện giữa sa mạc hoang vắng: Làm sao anh có thể tin vào Thiên Chúa, Đấng anh không hề trông thấy? Người Ả rập trả lời: Khi nhìn vào những dấu chân con sư tử trên cát, thì tôi biết được rằng con sư tử mới đi qua đây, mặc dù tôi không trông thấy nó. Với Thiên Chúa cũng vậy, mặc dù Ngài là Đấng vô hình, nhưng những kỳ công của Ngài nói cho tôi biết về Ngài.

Chúng ta thật may mắn vì ngay từ lúc mở mắt chào đời, chúng ta đã có một niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa, như điều răn thứ nhất đã truyền dạy. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều dân tộc mê tín, tin vào những chuyện nhảm nhí như lửa, như gió và các vì tinh tú, hay như ca dao đã diễn tả: Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề. Tại sao lại có tình trạng ấy?

Lý do thứ nhất, đó là vì sự yếu đuối, sự hạn hẹp của trí khôn con người, coi tất cả những gì đẹp đẽ, những gì oai hùng đều là thần minh. Họ giống như một bác nông dân, lần đầu tiên được bước vào cung vua, thấy bất kỳ ai ăn mặc đẹp đẽ cũng tưởng là nhà vua, nên quỳ gối chào kính.

Nhưng nguyên nhân chính yếu, đó là mưu mô của ma quỷ. Đã từ lâu, nó nuôi tham vọng được bằng Thiên Chúa, như lời tiên tri Isaia đã nói về nó: Ta sẽ lên tới trời và ta sẽ đặt ngai tòa của ta dưới những vì sao. Nó xúi bẩy con người đi tới chỗ thờ lạy nó và dâng tiến cho nó những lễ vật. Nhất là nó mong muốn người ta tôn kính nó như là Thiên Chúa. Chính vì thế, nó đã nói với Chúa Giêsu trong cơn cám dỗ: Ta sẽ ban cho ngươi mọi vương quốc trần gian, nếu ngươi quỳ gối thờ lạy ta.

Điều ma quỷ không thể tìm được nơi Chúa Giêsu, thì nhiều người kém lòng tin đã hiến dâng cho nó. Tình trạng mê tín không phải chỉ ngày xưa, mà ngay cả hôm nay trong thời buổi văn minh cũng vẫn có. Không thiếu gì những tín hữu đã làm những chuyện nhảm nhí để cầu mong cho được điều nọ điều kia. Họ đã vâng phục loài người hơn là vâng phục Thiên Chúa. Họ đã chạy theo những đam mê dục vọng bất chính, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Họ lấy cái bụng của họ làm chúa.

Tội mê tín hiểu theo một nghĩa rộng, đó là việc từ bỏ Thiên Chúa, để tìm kiếm hạnh phúc nơi những thụ tạo. Những đam mê mù quáng như kiêu căng, hà tiện, những khát vọng quá đáng về tiền bạc, danh vọng và lạc thú chính là những thần tượng giả tạo, chúng ta cần phải trục xuất ra khỏi tâm hồn, để tâm hồn trở thành đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị. Có khử trừ tội lỗi, thì cặp mắt tâm hồn chúng ta mới được trong sáng và chúng ta mới có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi vũ trụ và nơi những người chung quanh, cũng như nơi thẳm sâu cõi lòng chúng ta.

 

2. Nhìn cái tốt

Có một cô bé khó tính, luôn phê bình và chỉ trích bởi vì cô bé không bao giờ tìm thấy được một điều gì tốt nơi người khác. Bất kể ai làm được một việc tốt, thì cô bé cũng phải tìm cho ra một điều sai, một nguyên do xấu. Cô bé thường hay nói: Nó phải có ý đồ đen tối, nó phải rút ra được cái gì lợi trong đó. Và cô bé luôn bắt lỗi mọi người. Nhiều người trong chúng ta cũng hành động như cô bé bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu. Để rồi lúc nào cũng cau có, lúc nào cũng bực bội, lúc nào cũng bất mãn.

Thế rồi một ngày kia, nghe cha sở cắt nghĩa về đoạn Tim Mừng kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù bẩm sinh, mà chúng ta vừa mới được nghe đọc. Cô bé bỗng sực tỉnh và nhận thấy rằng: Tâm hồn mình đã thực sự bị mù loà vì đã không nhận ra được những cái tốt đẹp của người khác.

Chúa Giêsu đã chữa lành sự đui mù thể xác, để chứng tỏ Ngài cũng có thể chữa lành sự đui mù tâm hồn. Chính sự đui mù tâm hồn này còn tác hại cho chúng ta hơn cả sự đui mù thể xác. Vì một trong những cách biểu hiện của nó là không nhìn thấy chân lý, không nhìn thấy tình thương, không nhìn thấy những điều tốt đẹp của những người chung quanh. Tật đui mù này lại thường hay lân lan. Chính vì thế mỗi người chúng ta phải không ngừng tự hỏi: Tôi có bị đui mù về tâm hồn hay không? Nếu có, thì chúng ta hãy vội vã kêu cầu Chúa cứu chữa chúng ta như người đui mù trong đoạn Tin Mừng hôm nay.

Nơi tốt nhất để chúng ta bắt đầu sửa chữa tật đui mù này chính là gia đình. Chẳng hạn người mẹ quên đính nút áo hay quên vá chiêc quần cho chúng ta, thay vì càu nhàu trước sự sơ sót này, chúng ta hãy nghĩ đến những việc tốt mà mẹ đã làm cho chúng ta, chẳng hạn như nấu ăn, giặt giũ, lau chùi nhà cửa. Người anh của chúng ta hay nóng tính, thay vì nghĩ đến những lần gắt gỏng, thì chúng ta hãy nhớ tới công việc nặng nhọc mà người anh ấy phải làm ngoài thửa ruộng thần nông hay trong nhà máy để đem lại chén cơm manh áo cho gia đình và những người thân yêu.

Thay vì nghĩ đến những lầm lỗi của người khác, chúng ta hãy tập cho quen biết mở mắt để nhìn thấy những cái tốt cái đẹp của họ. Nghĩ tới nó và luôn nói về nó, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo: dù là một tên tướng cướp, thì trong lồng ngực của hắn cũng vẫn có một một mảnh tim vàng. Nhờ việc khám phá ra những cái tốt đẹp nơi họ, chúng ta sẽ xích lại gần họ hơn và dễ dàng yêu thương họ như Chúa đã truyền dạy chúng ta.

Bởi đó, cùng với anh mù trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta hãy kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, xin thương xót con và cho con được sáng.

 

3. Rào cản.

Có một chi tiết nhỏ qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay đã làm cho tôi phải suy nghĩ và muốn được đem ra để chia sẻ. Đó là đang khi chàng hành khất kêu van cùng Chúa Giêsu: Lạy Con Vua Đavid xin thương xót tôi, thì nhiều người đã quát mắng và bảo anh hãy im đi, hãy câm miệng lại. Những người này đã trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn không cho anh tiến đến cùng Chúa Giêsu. Đáng lẽ họ phải nắm lấy tay anh mà dẫn tới Chúa, thì họ lại túm cổ, lôi anh ra xa Ngài. Chẳng có một ai ngoài chính Chúa Giêsu đã giúp đỡ anh mà thôi.

Thực vậy, khi nghe dân chúng quát mắng anh, thì Ngài đã dừng lại, truyền dẫn anh đến với Ngài. Chỉ lúc đó, họ mới thay đổi thái độ. Chỉ lúc đó, họ mới chịu giúp đỡ con người bất hạnh kia.

Từ chi tiết nhỏ bé trên chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống, vì biết đâu, chính chúng ta đôi lúc cũng đã trở thành một thứ rào cản, ngăn chặn không cho Chúa đến với người khác, cũng như không cho người khác đến với Chúa. Vậy chúng ta đã trở nên một thứ rào cản như thế nào?

Tôi xin thưa: trước hết là bằng những ý nghĩ chủ quan đầy thiển kiến, những lời nói thiếu ý thức gây sứt mẻ và những cử chỉ mang tính cách ghen tị. Thực vậy, đứng trước một thanh niên rượu chè cờ bạc hay trộm cắp, mà nay muốn làm lại cuộc đời của mình để trở nên tốt lành hơn, thì phản ứng tự nhiên của chúng ta là nghi ngờ cái thiện chí của anh ta. Từ sự nghi này, chúng ta thường có thái độ cảnh giác, đề phòng bằng cách không liên hệ với anh ta. Và nếu có liên hệ thì cũng dè chừng, mắt trước mắt sau. Cũng vì sự nghi ngờ ấy, chúng ta thường có những lời nói vô ý thức, thiếu trách nhiệm, chẳng hạn: ngựa quen đường cũ. Người như nó mà bỏ được tật xấu này, tật xấu kia thì tôi chỉ bé bằng con kiến.

Tất cả những ý nghĩ, lời nói và thái độ như thế sẽ vùi dập mất chút thiện chí vừa mới lóe sáng trong tâm hồn người thanh niên, để rồi anh ta sẽ chẳng thể nào trở về cùng Chúa. Thay vì kéo anh ta đến với Chúa, thì chúng ta đã trở nên một thứ rào cản, thậm chí còn đẩy anh ta xa lìa Ngài. Hiện thời, đời sống và cách cư xử của chúng ta đã là một thứ rào cản, hay đã là một nhịp cầu, trên đó Chúa đến với những người anh em chúng ta, cũng như trên đó họ sẽ đến cùng Chúa.

Ngoài ra, chúng ta còn có thể trở nên một thứ rào cản bằng chính cuộc sống bê bối của chúng ta. Thực vậy, có những anh em lương dân đầy thiện chí, muốn tìm hiểu Kitô giáo cũng như sứ điệp Tin mừng, thế nhưng thiện chí này đã bị khựng lại khi họ nhìn vào đời sống cụ thể của chúng ta.

Thực vậy, khi nhìn vào đời sống, họ thấy chúng ta cũng gian tham và bất công, cũng độc ác và hà hiếp, cũng giận hờn và thù oán, cũng vợ nọ con kia, lem nhem trong lãnh vực tình cảm… để rồi có lúc họ đã phải thốt lên: Tôi tưởng người Kitô hữu tốt lành như thế nào. Không ngờ họ còn thua cả những người cộng sản, những người Hòa Hảo, những người Cao Đài.

Đáng lẽ ra đời sống của chúng ta phải là một bài giảng hùng hồn, có sức thuyết phục cuốn hút họ về với Đức Kitô, thì do những bê bối, đời sống của chúng ta đã trở thành một thứ thuốc nổ, phá hủy chút thiện chí còn đọng lại nơi họ, hay là đã trở thành một thứ rào cản không cho họ tiến đến cùng Chúa.

 

4. Xin cho con được sáng – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Killer, ông Braille (Brai-ơ) (1809-1852).

Ông Braille đã bị mù từ lúc lên ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là ông tổ ân nhân của thế giới mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.

Nếu họ được sáng mắt, họ sẽ thấy muôn cảnh vật tuyệt diệu lạ lùng đến chừng nào. Một bà cụ ở Rạch Giá, bị mù từ 56 tuổi. Thế là tất cả mọi người mọi vật chung quanh bà đều trở thành đen tối, tất cả đối với bà như đã chết. Bà quên hết mọi mầu sắc, hình ảnh, cảnh vật. Đến năm 73 tuổi, khi được bệnh viện Điện Biên Phủ (Saint Paul) chữa khỏi, bà được thấy lại cảnh vật và người ta, bà quá sung sướng hạnh phúc, khi gặp tôi bà nói: “Đẹp quá cha ơi, đẹp như thiên đàng vậy cha ơi!”. Thực ra, bà đâu đã thấy thiên đàng đẹp thế nào? Đó chỉ là ước mơ và nay ước mơ của bà đã thành sự thực, thì đúng là thiên đàng của bà.

Tâm trạng sung sướng bà mù này giúp chúng ta thấy được anh mù Bartimê sung sướng đến chừng nào khi được Chúa Giêsu chữa anh sáng mắt và cũng cho ta thấy nỗi khổ cùng cực của tật mù. Anh Bartimê cùng cực hơn nữa, mù còn phải lần mò đi ăn xin, vì đi lại quá khó khăn, nên anh chỉ biết ngồi bên vệ đường, lắng tai nghe có ai đi qua thì giơ tay ra van xin bố thí. Hôm nay, anh ngạc nhiên, nghe thấy tiếng người ồn ào đông đảo bước đi rầm rập trước mặt anh. Họ xôn xao cười nói về Đức Giêsu mà bao nhiêu lần anh đã được nghe tin đồn về Ngài là con vua Đa vít đã thương cứu chữa bao nhiêu người tàn tật. Anh đã bao nhiêu lần khao khát được gặp Ngài. Không ngờ, đây là dịp may nhất đời anh. Thế là anh lấy hết sức kêu gào, át cả tiếng ồn ào dọa nạt. Anh kêu như thét lên: “Lạy Con Vua Đa vít, xin thương xót tôi”. Trước tiếng kêu não nùng đó, Đức Giêsu đã dừng lại gọi anh. Anh liệng áo choàng nhảy chồm lên đến với Người. Người cúi xuống hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Anh thưa: “Xin cho con được sáng”. Người nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Tức khắc, anh nhìn thấy được và theo Người lên đường. Sung sướng biết bao cho anh, chẳng những được sáng mắt, anh còn được sáng trong đức tin mạnh mẽ để theo Đức Giêsu và trở nên những người Kitô hữu có mặt trong cộng đồng Công giáo đầu tiên, vì thế thánh Marcô viết Tin mừng đã kể đích tên anh. Anh đã không còn bị ngồi cô độc bên vệ đường nữa. Anh đã được sống chung với mọi người, được sống trong cộng đồng chan hòa tình thương, chan hòa ánh sáng trong vũ trụ bao la đầy cảnh vật mầu sắc huy hoàng. Thật là kỳ diệu, ánh sáng đã cho anh thấy được muôn người, muôn vật sống động và hiện hữu mà Thiên Chúa dựng nên.

Trước đây, anh đã phải sống trong một vũ trụ như chưa có ánh sáng, trời đất muôn vật lù mù, tăm tối, hỗn độn, mông lung, hiu quạnh trống không như thuở khai nguyên, cho tới lúc Thiên Chúa gọi: “Hãy có ánh sáng”, trời đất muôn vật mới xuất đầu lộ diện với muôn hình muôn sắc (St. 1, 1-3).

Đức Giêsu chữa anh mù được sáng để khẳng định cho nhân thế nhận ra Người là ánh sáng đôi mắt, ánh sáng trời đất và nhất là ánh sáng phục sinh, ánh sáng sự sống vinh quang muôn thuở: “Lúc khởi đầu, nhờ Ngôi Lời mà muôn vật được tạo thành … Người là Sự Sống và Sự Sống là Sự Sáng cho nhân loại … Thế gian nhờ Người mà có” (Ga. 1, 2-4 và 10). Nhưng vì phạm tội, loài người đã chết trong tăm tối: “Mọi người đã sinh ra trong tối tăm” (Eph. 4, 18). Đến nay, nhờ Người, “Thiên Chúa đã gọi chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng huyền diệu của Ngài” (1P. 2, 9 và Col. 1, 12). “Đức Kitô chiếu sáng trên chúng ta” (Eph. 5, 14) để “trong Chúa, chúng ta là ánh sáng” (Eph. 5, 8). Chính Đức Giêsu đã làm chúng ta nên ánh sáng để “chúng ta là ánh sáng thế gian” (Mt. 5, 14), nên “chúng ta phải sống như con cái sự sáng” (Eph. 5, 8 và 1Th. 5, 5).

Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt tâm hồn con, cho con được thấy ánh sáng của Người chiếu ra từ lời Chúa, từ việc Chúa làm và từ đời sống thương yêu “thông cảm với những kẻ ngu muội và lầm lạc, yếu đuối và bệnh tật để dâng mình tế lễ đền tội cứu chuộc muôn dân” (Dt. 5, 1-6).

 

5. Mù loà và mù quáng – Lm. Ignatiô Trần Ngà

Rất nhiều người may mắn không bị mù loà, nhưng hầu như ai cũng có lúc bị mù quáng. Người mù quáng dễ dàng thấy rõ những sai lầm của người khác nhưng mù tối về những sai lỗi của mình. “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”.

Vua Đa-vít được xem là một vị vua khôn ngoan, dũng cảm và đức độ; thế nhưng nhà vua cũng có lúc bị mù quáng nặng nề. Dù đã có nhiều thê thiếp, nhưng vua lại chiếm đoạt bà Bát-sa-bê là vợ của Uria và sau đó lại mượn tay quân thù giết chết chồng bà để chính thức cưới lấy bà nầy làm vợ. Thế là cùng một lúc vua đã phạm hai tội ác tầy đình: tội ngoại tình và tội giết người. Ấy thế mà vua vẫn ung dung như không có gì xảy ta. Sau đó, Thiên Chúa sai tiên tri Na-tan đến cảnh tỉnh nhà vua. Tiên tri nói với vua:

Trong thành kia, có một người giàu có đến cả ngàn dê cừu. Trong khi đó, bên cạnh nhà ông ta có một ông lão nghèo khó và cô độc, chỉ có một con chiên nhỏ làm bạn cho vui tuổi già. Ông lão thương con chiên đó như con gái của ông. Ông cho chiên ăn trên tay và cho ở trong nhà. Thế rồi khi người giàu có khách, ông ta không chịu bắt chiên mình làm tiệc, trái lại, cho tôi tớ qua nhà ông lão nghèo khổ bắt con chiên độc nhất của ông nầy làm thịt đãi khách.

Nghe đến đây, vua Đa-vít bừng bừng nổi giận. Vua muốn trừng trị tức khắc tên bất lương đó. Nhà vua phán: “Nó đáng chết vì tội ác nó đã phạm. Nó phải bồi thường gấp bốn thiệt hại nó đã gây ra.” Bấy giờ tiên tri Na-tan mới tỏ cho vua biết tên bất lương đó chính là nhà vua và Chúa sẽ trừng phạt vua vì tội ác đã gây ra.

Vua Đavít bừng sáng mắt ra, thấy rõ tội ác của mình nên đã ăn năn thống thiết. (II Samuel 11, 1-12,12)

* * *

Tuy bị mù loà là một thua thiệt lớn, nhưng không đáng sợ bằng mù quáng, vì người mù loà chẳng gây hại cho ai, còn người mù quáng có thể gây ra vô vàn điều tai hại cho mình và cho xã hội. Mặt khác, người mù quáng không hề tự biết là mình mù quáng, vì thế sự chữa trị lại càng khó khăn hơn.

* * *

Đã mang lấy phận người, mấy ai không bị mù quáng? Nhưng nhận ra mình mù quáng và cần được cứu chữa cũng là điều rất khó khăn.

Điều kiện cần thiết nhất để được Chúa Giêsu cứu chữa là phải khao khát được sáng.

Anh mù Bartimê có lòng khao khát được sáng rất mãnh liệt. Khi anh ta nghe biết là có Chúa Giêsu đi ngang qua, anh ta liền cất tiếng kêu to: “Lạy ông Giêsu, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi”. Dù người qua kẻ lại quát mắng anh im đi nhưng không gì có thể dập tắt được khao khát được sáng bừng lên mãnh liệt trong lòng, nên anh càng la to hơn: “Lạy ông Giêsu, con vua Đa-vít, xin hãy thương xót tôi!

Thế rồi, khi được biết là Chúa Giêsu cho vời mình đến, anh vui mừng đến độ vứt cả áo choàng, vứt cả bị gậy để đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? Anh mau mắn thưa ngay: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy.”

Cầu được ước thấy, ánh sáng đã bừng lên cho anh. Anh thấy được Đức Giêsu, thấy mọi người chung quanh, thấy thế giới rực rỡ muôn màu.

Muốn được chữa lành bệnh mù quáng, chúng ta phải có lòng khao khát mãnh liệt được sáng như anh mù Bartimê. Lòng khao khát đó sẽ thúc đẩy chúng ta đến với Đức Giêsu là Ánh Sáng đích thật và Ánh Sáng của Ngài sẽ xoá tan sự mù quáng đang vây phủ lòng trí chúng ta. Khi đó, chúng ta sẽ tránh được rất nhiều điều đáng tiếc và đáng hổ thẹn trong đời mình.

 

6. Sáng đôi mắt đức tin – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng.

Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.

Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: “Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón”. Mọi người đều làm theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: “Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn”. Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: “Đây là tình trạng của những người mù”. Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.

*****

“Có đau mắt mới biết thương người mù”. Các sinh viên trong câu chuyện trên đây đã cảm nghiệm trong giây lát nỗi khổ của người mù. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Quả thật, người mù đã không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn ngắm người thân bạn bè, mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, sống bên lề xã hội.

Hôm nay Đức Giêsu chữa người hành khất mù Báctimê. Anh mù loà, “ngồi bên vệ đường” ăn xin, nghe biết Đức Giêsu đi qua, anh thống thiết kêu van: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót con” (Mc.10,47). Người ta ngăn cấm anh, nhưng anh càng tin tưởng kêu to hơn: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót con”. Người cho gọi anh, anh sung sướng, liệng áo choàng, đứng phắt dậy, đến cùng Người: “Lạy Thầy, xin cho con được sáng” (Mc.10,51). Tức thì anh ta thấy được.

Và khuôn mặt đầu tiên anh nhìn thấy chính là Đức Giêsu, Đấng đã đến để thắp sáng đời anh. Người phán: “Đức tin của anh đã chữa anh” (Mc.10,52).

Đích thực, Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt Đức tin, vì anh đã thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế khi gọi Người là “con vua Đavít”.

Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn, vì anh đã thấy Đức Giêsu là người có quyền chữa anh khỏi bệnh mù loà.

Với đôi mắt đức tin, anh đã chẳng sợ người ta cấm cản. Càng đe dọa, anh càng lớn tiếng kêu xin thống thiết hơn.

Với đôi mắt đức tin, anh đã liệng bỏ áo choàng là phương tiện để nhận quà tặng, cởi bỏ đời sống ăn xin, từ bỏ thân phận mù loà, rũ bỏ đời sống tối tăm, đến miền ánh sáng tình yêu và sự sống.

“Lạy Thầy, xin cho con được thấy”. Đó phải là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt kia. Mù loà thể xác ai cũng biết, nhưng mù loà tâm hồn thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xóa cảnh mù loà cho mình. Vì chỉ “trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng”.

***

Lạy Chúa,

Xin cho mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con thấy Chúa là tất cả, thấy anh em thật dễ mến dễ thương, và thấy mình càng nhỏ bé đi, trong bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.

 

7. Ngọn đèn cho thân xác

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Con mắt là đèn soi cho thân xác con. (Mt 6, 22)

Christine Hà, cô gái khiếm thị đầu tiên tham dự chương trình MasterChef đã khiến mọi người phải kinh ngạc, vì tài năng và nỗ lực hiếm có của cô và giành được giải quán quân Vua đầu bếp Mỹ lần thứ ba, vượt qua hơn 100 đầu bếp của nước Mỹ, vừa diễn ra vào tối 10/9/2012.

Trong vòng chung kết, hai thí sinh được yêu cầu nấu 3 món ăn trong vòng hai giờ. Các món của Hà được đánh giá cao về cân bằng dinh dưỡng và thực hiện hoàn hảo, mà cô miêu tả là ” bản giao hưởng của những hương vị”.

Khi 19 tuổi, Hà được chẩn đoán mắc một chứng bệnh về thị giác rất hiếm gặp khiến cô bị rối loạn khả năng tự miễn dịch và dần dần các dây thần kinh thị giác, và một số dây thần kinh trong tủy sống bị tê liệt. Thị lực của cô mất dần kể từ năm 1999 và hoàn toàn mất hẳn vào năm 2007.

Trước đây, Hà không biết nấu ăn và mới chỉ cách đây vài năm cô mới bắt đầu khởi động từ những món ăn đơn giản nhất. Cô mày mò tự học, dù trước đó cô chưa trải qua một trường lớp, hay được một vị đầu bếp nào đứng ra dạy bảo.

Tường thuật Tin Mừng hôm nay, kể về anh chàng Batimê cũng mù lòa, ngồi ăn xin bên vệ đường, đã phải cố gắng vượt qua những rào cản của đám đông, đe dọa, cấm đoán, để xin Chúa Giêsu cứu chữa.

Mù mắt sáng lòng

Tuy bị tách ra khỏi cộng đồng xã hội, ngồi ăn xin vất vưởng vệ đường với đôi mắt mù lòa, anh Batimê vẫn nóng bỏng niềm hy vọng được cứu chữa. Dù hẩm hiu số phận, anh vẫn chờ đợi và sẵn sàng tỉnh thức, đón nhận phúc lành. “Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêricô, anh nghe nói đó là Đức Giêsu Nazaret, anh ta liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đa vít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10, 46-47)

Cũng như cô Christine Hà mù lòa, chàng Batimê được Thiên Chúa bù đắp lại bằng các giác quan còn lại phát triển hơn người bình thường. Điều khác biệt giữa chàng Batimê và cô Christine Hà, là kết quả nhận được, một bên chỉ là tiền bạc, danh vọng phù vân và bên kia kho tàng viên mãn đời đời.

Nhưng tại sao cả đám đông đang mải mê đi theo Chúa, không một ai công khai xưng tụng danh Chúa Giêsu là Con Vua Đa vít? Đó là tước hiệu của Đấng Mêsia trong dân gian, mà Chúa Giêsu, trong các chương Tin Mừng Mác Cô trước đây, đã cấm quỷ và người được hưởng phép lạ, cũng như chính các môn đệ, nói ra Người là ai. Nhưng ở đây, chàng Batimê thoải mái gọi Người ngay giữa đám đông bằng tước hiệu Mêsia, thì Người không cấm nữa. Có lẽ vì lời tuyên xưng đó phát xuất từ Niềm Tin mạnh mẽ, không phải cậy nhờ vào các phép lạ hay dư luận. Trong khi đó, các thầy tư tế, Biệt phái, luật sĩ đang ráo riết phủ nhận Người là Đấng Mêsia. Nên ai dám khẳng định điều đó, thì đương nhiên gây thù chuốc oán với họ.

Chính Đức Tin đã soi sáng cho anh Batimê nhìn thấy Đấng Mêsia, đã ban cho anh thêm sức mạnh, dũng cảm tuyên xưng thánh danh Người. Chính Đức Tin đã thúc đẩy anh công khai cầu xin Chúa, không e ngại bị gây khó dễ, bắt nạt, đàn áp, không sợ bị bịt miệng vì công bố sự thật thánh thiêng. Chính con mắt Đức Tin đã soi đường chỉ lối cho anh.

Vượt qua thách đố

Hành trình của anh Batimê đến với Chúa Giêsu, lại còn tiếp tục chịu nhiều thách đố trở ngại, tưởng chừng không thể vượt qua nổi. Đám đông xúm xít rẻ rúng, khinh rẻ, hoặc nghi ngờ, cũng như cảnh giác anh ăn xin Batimê nghèo nàn rách rưới, hôi hám, dơ bẩn, ngăn cản anh lại gần Chúa Giêsu. Dẫu vậy, anh cứ la lên, lớn tiếng, kêu xin Chúa rủ lòng thương anh. “Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: Lạy Con Vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10, 48)

Nếu anh Batimê không dốc lòng, dốc sức kêu van thống thiết, thì liệu anh có át nổi tiếng những tiếng hỗn loạn, đe nạt của đám đông, để thấu nổi đến tai Chúa chăng? Dẫu vậy, Người không bao giờ bỏ quên những người khốn cùng, bệnh hoạn, tật nguyền, như mù, què, câm điếc, phong hủi.

Nhưng nếu anh cứ do dự, yếu bóng vía, sợ hãi các thế lực đàn áp, những lời hăm dọa, quát nạt, không còn tin tưởng, trôngcậy vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa Giêsu, thì liệu anh được đoái thương chăng?

Đáp lại Ơn Gọi

Đức Giêsu đứng lại và nói:”Gọi anh ta lại đây!”Người ta gọi anh mù và bảo:”Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. (Mc 10, 49-50)

Nghe tiếng gọi, anh Batimê vội vàng đáp lại, bỏ ngay những gì đang cản trở, thoát khỏi sự níu kéo, ràng buộc vào vật chất, tiện nghi, áo choàng vướng víu, đứng phắt dậy, dứt khoát mau chóng đến với Chúa. Chứng tỏ lòng nhiệt tình, lòng thành tâm sôi sục, sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi.

Dù anh mù lòa, nghèo nàn, bộ dạng xấu xí, thảm não, nhưng lòng anh rạng ngời, luôn sẵn sàng rộng mở, nhạy bén đón nhận Ơn Gọi. Anh đã hân hoan, mừng rỡ nhận lãnh phước lành.

Hai con mắt hướng dẫn chúng ta trên con đường đi tới Nước Trời là con mắt của đức Tin và đức Mến. Lòng tin càng mạnh mẽ và lòng mến càng nồng nàn thì đường đi càng sáng sủa và chắc chắn. (DC de Ségur)

Dứt khoát đi theo Chúa

Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”Anh mù đáp: ”Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”Người nói:”Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi. (Mc 10, 50-52)

Từ lòng Tin, niềm trông Cậy, lửa Mến đã cháy bừng trong tâm hồn anh. Batimê đã được giải thoát khỏi sự u mê, tăm tối, khỏi ách satan ma quỷ giam cầm anh trong bóng đêm dày đặc tội lỗi. Nay anh đã thấy ánh sáng nẻo ngay, chân lý, sự sống viên mãn, sẵn sàng can đảm đi theo Chúa.

“Hãy theo Thầy!” các Tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa. Con có dứt khoát một phen theo Chúa không? Chúa phải gọi con mấy lần rồi? (ĐHV, 61)

Lạy Chúa, xin cho con luôn sáng lòng, để thoát khỏi u mê tội lỗi giam cần vây hãm, để con nhận ra tiếng Chúa gọi, mà đi theo Chúa mãi.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ soi sáng lòng trí con luôn nhận ra ánh sáng ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu, đang mời gọi, mong chờ con tìm đến, để kết hợp sống chặt chẽ với Người. Amen.

 

8. Trở nên Bartimê

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Trở lại Assisi, một tối kia bè bạn đặt chàng Phanxicô đứng đầu để chi tiêu thỏa thích. Chàng cho dọn một bữa tiệc thịnh soạn như chàng vẫn thường làm trong quá khứ. Ăn uống no nê xong, họ kéo nhau ra khỏi nhà. Đám bạn đi phía trước, vừa đi vừa ca hát qua các ngả đường thành phố. Tay cầm cây trượng thủ lãnh, chàng lùi lại sau họ một ít, không ca hát nhưng mải miết suy tư. Bỗng nhiên chàng được Chúa viếng thăm. Chúa đổ đầy tâm hồn chàng một sự êm dịu lớn lao đến mức chàng không nói năng, hay cử động gì được. Chàng không thể cảm nghiệm và nghe thấy gì khác ngoài sự êm dịu kỳ lạ này, nó khiến chàng thoát ra ngoài mọi cảm giác. Và như Phanxicô sau này cho biết, giả sử lúc đó người ta có định xẻ thịt mình, thì chàng cũng không thể nào cử động được.

Khi các bạn ngoảnh lại và thấy chàng cách họ khá xa, họ liền quay trở lại, ngạc nhiên vì thấy chàng đã biến đổi thành một con người khác. Họ hỏi chàng: “Anh nghĩ ngợi gì mà không đi theo chúng tôi? Có phải đang tính đến chuyện cưới vợ không?” Chàng mạnh dạn trả lời: “Các bạn nói đúng đấy! Tôi đang nghĩ đến việc cưới một người vợ quí phái, giàu sang và kiều diễm hơn bất cứ người nào các bạn đã từng thấy.” Họ cười nhạo chàng. Thực ra chàng nói câu ấy không phải tự ý mình, nhưng do được Thiên Chúa linh ứng, vì vị hôn thê là đời sống tu trì chân thực, mà sau này chàng sẽ noi theo, một vị hôn thê quí phái, giàu sang và kiều diễm hơn nhờ có đức khó nghèo.

Kể từ giờ phút ấy, chàng bắt đầu coi thường bản thân và khinh chê những gì trước đây chàng ưa thích. Vì chưa hoàn toàn tách khỏi các sự phù vân của thế gian, nên sự biến chuyển vẫn chưa trọn vẹn. Tuy nhiên chàng cũng dần dần rút lui khỏi cảnh huyên náo và bon chen của trần thế và chăm chú tìm kiếm Chúa Giêsu Kitô trong con người nội tâm. Để che giấu khỏi tầm mắt những kẻ thích nhạo cười viên ngọc quí, mà chàng đem bán mọi tài sản để mua lấy, chàng thường xuyên và gần như mỗi ngày, lánh mình cầu nguyện ở nơi kín đáo. Chàng được thúc đẩy làm như vậy, vì chính niềm êm dịu đã được nếm trước đó. Nay niềm êm dịu ấy lại viếng thăm chàng thường xuyên hơn nữa, cuốn hút chàng vào cầu nguyện ngay giữa quảng trường hay giữa những nơi công cộng khác.

Mặc dầu từ lâu chàng đã là ân nhân của người nghèo, nhưng kể từ đấy, chàng quyết tâm không bao giờ từ chối bất kỳ người nghèo nào đến xin bố thí nhân danh Chúa, trái lại còn sẵn lòng cho rộng rãi hơn thường lệ. Như thế, mỗi lần có kẻ nghèo đến xin ngoài đường, chàng đều lấy tiền cho. Nếu không sẵn tiền, chàng lấy mũ hay giây thắt lưng của mình cho người ấy, để chắc chắn là người ấy không ra về tay không. Nếu không có cả những thứ ấy, chàng không ngần ngại đến một chỗ khuất, cởi áo ra, đem trao cho người nghèo và năn nỉ người ấy nhận lấy vì lòng mến Chúa. Chàng cũng mua cả những vật dụng để trang hoàng nhà thờ, và kín đáo gởi các thứ đó đến các linh mục nghèo túng. (Truyện thánh Phanxicô do ba người bạn thuật, Ofmvn.org)

Chàng công tử hào hoa Phanxicô thành Assisiô bất ngờ nghe tiếng Chúa gọi. Chàng cảm thấy ngây ngất, hạnh phúc vô cùng. Con tim mù lòa của chàng được hào quang Nước Trời chiếu dọi vào, trở nên ấm áp lạ lùng. Bỏ mặc những tiếng cười chê của bạn bè, thị phi của thiên hạ, chàng Phanxicô can đảm canh tân cuộc đời, y như anh chàng mù Bartimê được Chúa cho sáng mắt.

Tin Mừng Chúa nhật 30 hôm nay, Thánh sử Máccô thuật lại hành trình đức tin của chàng hành khất Bartimê mù lòa. Công khai hóa niềm tin, tích cực khấn xin chữa lành, anh tìm đến Đức Giêsu, vượt qua gian nan, thử thách, dám từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa.

Tin Người

Giữa đám đông chen chúc, hỗn độn, ô hợp, xô bồ, anh Bartimê mù lòa đang ngồi ăn xin bên vệ đường, được biết Đức Giêsu đi ngang qua, liền cất lên tiếng cầu khẩn: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương con.” (Mc 10, 46-47) Tiếng kêu tha thiết, mãnh liệt, tràn đầy tin cậy, tưởng chừng lạc lõng, bị lấn át đi, chẳng ai có thể nghe được. Không bỏ cuộc, anh lại lớn tiếng lập lại ước nguyện: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi.”

Hình như lời xưng tụng “Con Vua Đavít” không được đông đảo quần chúng đồng tình ủng hộ? Bởi vì thiên hạ đang mong đợi một Đấng Messia, cứu nhân độ thế, giải phóng Israel khỏi ách nô lệ Roma, phải uy nghi, hùng dũng, tiền hô hậu ủng, chứ không phải ông Giêsu Nazareth bình dân bụi đời. Mặc cho quần chúng sáng mắt nhưng tối lòng, đang vây quanh Đức Giêsu, dọa nạt, cưỡng bức Bartimê phải im lặng, anh vẫn không chịu khuất phục, càng khẳng định, xưng tụng, gào to hơn: “Con vua Đavít!” càng van xin lòng thương xót của Đấng Cứu Thế. Như ánh sáng chói lọi giữa đêm u ám kiếp mù lòa, đức tin anh Bartimê bỗng rạng ngời bừng sáng, không cần giấu diếm, che đậy, không đắn đo, không khôn ngoan theo thế gian, bất chấp những đòn trả thù dã man của những kẻ quá khích kình chống Đức Giêsu, đang lởn vởn vây quanh gầm ghè hăm dọa. Bartimê vẫn anh dũng tuyên xưng đức tin.

Tìm Người

Mặc dầu nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi.” Giữa tiếng ồn ào, giữa đám đông huyên náo, giữa xã hội nhiễu nhương, đa dạng, Đức Giêsu vẫn luôn lắng nghe, luôn thấu hiểu, luôn đáp lại bất cứ ai khẩn cầu Người, cần đến Người cứu chữa, giúp đỡ, che chở. Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh.” Không bao giờ Người phụ lòng bất cứ một ai chân thành tìm đến Người cứu giúp. “Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giêsu.”

Vượt qua những rào cản hữu hình, vượt qua nỗi sợ hãi đến với Đức Giêsu, anh Bartimê còn can đảm vất bỏ đi tấm áo choàng bất ly thân của anh, vốn gắn bó che thân và mưu sinh. Cương quyết bỏ đi tất tần tật những gì vương vấn, vướng víu, trở ngại để đến với Chúa. Đức tin trưởng thành của anh dẫn đến hành động xả kỷ rất quyết liệt, rất dũng cảm, không chút e dè, chần chừ, so đo, tính toán: “đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giêsu,” dứt khoát bỏ mình, dấn thân theo Chúa. Hành trình đức tin khi này đưa Bartimê đến tầm cao mới, thoát khỏi sự lệ thuộc vật chất tầm thường. Thánh Phanxicô cũng đã noi gương anh Bartimê, cho đi áo quần, giày mũ, của cải, để hân hoan, thảnh thơi đi theo Chúa.

Theo Người

Chúa Giêsu đáp: “Được, đức tin của anh đã chữa anh.” Tức thì anh ta thấy được và đi theo. Dù hoàn toàn hiểu nguyện vọng của anh, Đức Giêsu vẫn tôn trọng tự do của anh, muốn chính anh bộc lộ ra công khai. Rồi chính quyền năng Người đã cứu chữa anh sáng mắt, nhưng Người nhấn mạnh đó là thành quả của đức tin đáng được tưởng thưởng của anh Bartimê. Một sự khiêm tốn cả thể và một tầm quan trọng vô cùng của đức tin.

Hành trình đức tin của Bartimê bắt đầu từ lặn lội đi tìm Chúa, vượt qua gian khó, thử thách, từ bỏ mình, khám phá ra Ánh Sáng, được chiếu sáng cả thân xác lẫn tâm hồn, được nhận biết chân dung nhân ái của Đức Giêsu, tiếp tục dìu dắt anh đồng hành cùng Người, hướng về Giêrusalem theo Thánh Ý Đức Chúa Cha.

“Quyết định theo Chúa của con không phải chỉ là một chữ ký, không phải là một lời tuyên thệ thôi. Nhưng là một sự hiến dâng liên lỉ thực hiện trong cả cuộc sống.” (Đường Hy Vọng, số 69)

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con trở nên chàng Bartimê mới, biết tin yêu lắng nghe, từ bỏ của cải, bươn chải tìm đến Chúa, hội ngộ với Chúa, được chiếu sáng tâm hồn và được đồng hành với Chúa trên đường hy vọng.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã từ bỏ mọi sự thế gian, dâng hiến trọn đời theo Chúa, xin cầu bầu cứu giúp chúng con thoát khỏi đêm đen đầy ma lực cám dỗ, để tỉnh thức tìm đến Ánh Sáng Chúa Kitô. Amen.

 

9. Thiên Chúa thương cứu con người

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Anh mù ăn xin, con ông Timê, hôm nay được chữa lành. Khi được Đức Giêsu gọi, anh ta vui mừng đã vứt tung cả áo choàng để có thể mau đến với Đức Giêsu. Nhờ đức tin soi dẫn, anh ta đã được sáng.

  1. Thiên Chúa- Đấng thương xót con người

Vào thế kỷ VI trước công nguyên, khi dân Do Thái đang lưu đày, Yêrêmia đã nói với tư cách ngôn sứ: Thiên Chúa sẽ đem dân Israel lưu đày trở về. Thiên Chúa sẽ cứu dân Người, số sót của Israel; ngay cả những người què và đui mù, phụ nữ với trẻ thơ, từng đoàn từng lũ kéo nhau về. Thiên Chúa sẽ an ủi dân Người khi Người đem họ về. Thiên Chúa sẽ dẫn họ tới suối nước, đi trên đường bằng phẳng kẻo họ bị vấp ngã, vì Thiên Chúa là cha của Israel.

Vì tội lỗi của dân, Thiên Chúa để dân Do Thái phải lưu đầy nơi đất khách quê người; và vì lòng nhân từ, Thiên Chúa đưa dân Israel trở về. Đây là những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho dân Do Thái trước mắt mọi dân tộc. Khi một dân bị lưu đầy giữa một dân tộc khác, họ sẽ bị kỳ thị, khinh bỉ, hà hiếp, và cảm thấy nhục nhã. Dân Do Thái đã một thời sống nơi đất khách quê người hơn bốn trăm năm, từ thời ông Giacóp và mãi đến thời Thiên Chúa dùng Môsê giải phóng dân Chúa khỏi Aicập và đưa về Đất Hứa. Lần này khi bị lưu đày ở Babylon, Thiên Chúa đã dùng vua người ngoại Kyrô đem dân Ngài trở về quê hương xứ sở. Được trở về quê hương, cũng tương tự như được giải phóng khỏi ách nô lệ, dân Chúa vui mừng dường bao!

Thiên Chúa là Đấng thương xót dân Ngài. Ngài rung động trước nỗi khổ của dân, và Ngài đáp cứu họ. Thiên Chúa tỏ cho dân biết Ngài là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, quan tâm đến dân, muốn giải phóng dân thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Thiên Chúa rất gần con người, Ngài luôn ở bên con người để có thể nghe được tiếng họ kêu xin. Thiên Chúa là người kề cận, là người bạn, người anh, người cha và người mẹ đối với con người.

  1. Gọi anh ta lại đây

Đức Giêsu trong cuộc đời đi rao giảng, Ngài cũng rung động trước nỗi khổ của con người. Với người nghèo đói, Ngài cho họ cơm bánh; với những người bệnh tật như người mù, người bại liệt, người phong cùi, người điếc lác, Ngài chữa lành họ. Ngài đã trải qua kiếp nghèo nên Ngài dễ thông cảm với người nghèo; Ngài đã khổ nên Ngài dễ thông cảm với những ai đau khổ; Ngài được sinh ra trong hoàn cảnh cùng khổ nhất, nên có thể thông cảm với tất cả mọi người.

Người mù con ông Timê nghe biết Đức Giêsu đi ngang qua, anh ta kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người ta quát mắng bảo anh im đi, nhưng anh ta lại càng la to hơn: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Đây là tiếng kêu của người đau khổ, người cùng khốn, không biết nại vào điều gì để xin người khác ban ơn cho mình, chỉ còn biết nại vào lòng thương xót của người khác. Anh ta không có lý do gì để xin điều mình muốn xin, chỉ nhờ hoàn toàn vào lòng thương của người khác. Đức Giêsu là người cảm thương anh hơn cả; người khác quát mắng đòi anh im lặng nhưng Đức Giêsu thì khác. Người khác có thể không tin, nên đòi anh im lặng; còn anh, anh hy vọng, anh tin, nên anh càng la to hơn. Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi. Đức Giêsu dừng lại. Ngài đã nghe thấy tiếng kêu cứu, kêu xin Ngài cứu. Ngài không thể bước đi vì tiếng kêu xin này! “Gọi anh ta tới đây”. Anh ta mừng, nhẩy lên, vứt cả áo choàng. Hy vọng tràn trề: Ngài đã cho gọi anh, Ngài đã nghe tiếng anh, đã quan tâm tới anh. “Anh muốn ta làm gì cho anh? Lạy thầy, xin cho tôi được sáng”. Một câu quá ngắn, nhưng lại quá khó khăn đối với con người! “Lòng tin của anh đã cứu anh”.

Đức Giêsu là đại diện Thiên Chúa đối với con người. Ngài sống giữa con người như những người nghèo hèn nhất, cùng khốn nhất; Ngài có thể nghe tiếng kêu cứu của con người. Ngày xưa, Thiên Chúa đã nghe tiếng dân Israel kêu cứu khi phải sống lầm than ở Aicập, Ngài đã sai Môsê đi cứu họ; ngày nay, Thiên Chúa cũng luôn nghe tiếng kêu cứu của con người. Thiên Chúa cũng sai bao người đại diện Ngài thương cứu con người hôm nay. Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho tha nhân.

III. Đức Giêsu- Vị thượng tế cảm thông nỗi khổ đau của con người

Một người không thể là thượng tế theo ý mình muốn, nhưng là một ân huệ được Thiên Chúa trao tặng. Đó là một ơn gọi. Vị thượng tế cũng là một người như bao người khác, cũng yếu đuối và lỗi lầm, nên phải dâng lễ tạ tội cho dân và cho chính mình. Vị thượng tế là người thông cảm với người khác, vì chính ngài cũng cảm thấy mình mong manh mỏng dòn như người khác vậy. Vị thượng tế được chọn giữa bao người, để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.

Tác giả thư Do Thái nhận ra Đức Giêsu Kitô là vị thượng tế; vị thượng tế này không phạm tội cho dù Ngài chia sẻ hoàn toàn thân phận con người. Vị thượng tế này rất gần con người cho dù Ngài không phạm tội, vì Ngài cũng chia sẻ tất cả những gì là con người. Ngài không là tội nhân vì phạm tội không thuộc về bản chất con người. Thiên Chúa không tạo dựng con người để con người phạm tội, nhưng tạo dựng con người để con người nên giống Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa.

Đức Giêsu Kitô là biểu lộ tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu thương cảm con người, tức là, Thiên Chúa thương cảm con người. Đức Giêsu là Thiên Chúa ở với con người: Thiên Chúa hiện diện với con người trong mọi nỗi gian khổ và thăng trầm của họ trong cuộc sống, Ngài đói với người đói, khát với người khát; Ngài đau với người đau, khổ với người khổ. Ngài muốn con người nhận ra rằng: Thiên Chúa yêu con người, và Thiên Chúa muốn con người ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình thương. Ai sống yêu thương là con cái Thiên Chúa. Ai yêu thương anh em là yêu thương Thiên Chúa. Thiên Chúa thương cứu con người nhờ Đức Giêsu Kitô.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Với bạn, từ ngữ nào diễn tả Thiên Chúa cách tuyệt nhất?
  2. Bạn thích Đức Giêsu ở điểm nào nhất?
  3. Bạn ao ước Thiên Chúa làm gì cho bạn?

 

10. Chúa cho người mù được thấy

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện anh mù Bartimê kêu xin Ðức Giêsu “Lạy Thầy, xin cho con được thấy”. Và Ðức Giêsu đã cứu chữa anh. Chúng ta cũng có thể dùng lời của Bartimê để cầu xin với Chúa, bởi vì chúng ta cũng mù loà về rất nhiều điều.

  1. Gợi ý sám hối

– Chúng ta mù lòa không thấy những bằng chứng của tình thương Chúa rất nhiều chung quanh chúng ta và trong cuộc đời chúng ta.

– Chúng ta mù lòa không thấy những cảnh khổ của anh chị em chúng ta.

– Chúng ta mù lòa không thấy lỗi lầm khuyết điểm của chúng ta.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Gr 31,7-9)

Ngôn sứ Giêrêmia nói tiên tri về thời giải phóng. Khi đó Thiên Chúa sẽ đưa dân từ chốn lưu đày trở về quê hương; tất cả những người đau khổ, mà đại biểu là những người mù, què, tàn tật sẽ được cứu chữa.

  1. Ðáp ca (Tv 125)

Bài ca mừng cuộc giải phóng khỏi kiếp lưu đày.

  1. Tin Mừng (Mc 10,46-52)

Liền sau chuyện Giacôbê và Gioan xin địa vị ưu tiên trong “nước” Ðức Giêsu sắp thành lập, Mc viết tiếp chuyện anh Bartimê như để “sửa lưng” các môn đệ. Bartimê là tấm gương cho tất cả những ai muốn “thấy” Ðức Giêsu thực sự là ai và thực lòng muốn “đi theo” Ngài.

– Mặc dù mù, nhưng anh tha thiết “xin cho tôi được thấy”, và cuối cùng anh đã thấy. Khi thấy rồi, anh còn “đi theo” Ðức Giêsu lên Giêrusalem (ở đó Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và sống lại).

– Trước đó, khi được Ðức Giêsu gọi, anh đã từ bỏ (“liệng áo choàng”), thay đổi nếp sống (từ “ngồi ở vệ đường” đến “đứng dậy”), quy hướng về Ðức Giêsu (“nhảy đến với Ðức Giêsu”).

  1. Bài đọc II (Dt 5,1-6) (Chủ đề phụ)

Tác giả thư Do thái tiếp tục suy tư về vai trò của Vị Thượng Tế người phàm: (1) Vị đó được chọn từ giữa loài người, (2) để đại diện cho loài người trong các tương quan với Thiên Chúa. (3) Vì cũng mang thân phận loài người tội lỗi, nên chẳng những vị ấy dâng lễ đền tội cho dân, mà còn phải dâng lễ đền tội cho chính mình.

  1. Gợi ý giảng
  2. Sáng đôi mắt đức tin (Mc 10,46-53)

Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng.

Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.

Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: “Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón”. Mọi người đều làm theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: “Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn”. Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: “Ðây là tình trạng của những người mù”. Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.

*****

“Có đau mắt mới biết thương người mù”. Các sinh viên trong câu chuyện trên đây đã cảm nghiệm trong giây lát nỗi khổ của người mù. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Quả thật, người mù đã không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn ngắm người thân bạn bè, mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, sống bên lề xã hội.

Hôm nay Ðức Giêsu chữa người hành khất mù Báctimê. Anh mù loà, “ngồi bên vệ đường” ăn xin, nghe biết Ðức Giêsu đi qua, anh thống thiết kêu van: “Hỡi ông Giêsu, con vua Ðavít, xin thương xót con” (Mc.10,47). Người ta ngăn cấm anh, nhưng anh càng tin tưởng kêu to hơn: “Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót con”. Người cho gọi anh, anh sung sướng, liệng áo choàng, đứng phắt dậy, đến cùng Người: “Lạy Thầy, xin cho con được sáng” (Mc.10,51). Tức thì anh ta thấy được.

Và khuôn mặt đầu tiên anh nhìn thấy chính là Ðức Giêsu, Ðấng đã đến để thắp sáng đời anh. Người phán: “Ðức tin của anh đã chữa anh” (Mc.10,52).

Ðích thực, Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt Ðức tin, vì anh đã thấy Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế khi gọi Người là “con vua Ðavít”.

Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn, vì anh đã thấy Ðức Giêsu là người có quyền chữa anh khỏi bệnh mù loà.

Với đôi mắt đức tin, anh đã chẳng sợ người ta cấm cản. Càng đe dọa, anh càng lớn tiếng kêu xin thống thiết hơn.

Với đôi mắt đức tin, anh đã liệng bỏ áo choàng là phương tiện để nhận quà tặng, cởi bỏ đời sống ăn xin, từ bỏ thân phận mù loà, rũ bỏ đời sống tối tăm, đến miền ánh sáng tình yêu và sự sống.

“Lạy Thầy, xin cho con được thấy”. Ðó phải là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt kia. Mù loà thể xác ai cũng biết, nhưng mù loà tâm hồn thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xóa cảnh mù loà cho mình. Vì chỉ “trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng”.

***

Lạy Chúa,

Xin cho mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con thấy Chúa là tất cả, thấy anh em thật dễ mến dễ thương, và thấy mình càng nhỏ bé đi, trong bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.

(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

  1. Thị giác và thị lực

Cần phải phân biệt thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy: nhiều hay ít, xa hay gần, rõ hay mờ v.v. Người cận thị chỉ thấy được rất gần; người viễn thị thì thấy xa hơn. Thí dụ này giúp ta hiểu rằng chỉ có thị giác thôi thì chưa đủ, mà còn phải có thị lực tốt.

Hiểu rộng hơn một chút, thị lực không phải chỉ là mức độ thấy của đôi mắt, mà còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác.

Ðức Giêsu là người có thị lực rất tốt: Ngài thấy Natanael đang ngồi dưới gốc cây vả trước khi ông tìm đến với Ngài; Ngài thấy tấm lòng của một bà goá dâng hai xu trong thùng tiền đền thờ; Ngài thấy cõi lòng tan nát của người phụ nữ ngoại tình bị lôi đến sân đền thờ để chịu xét xử v.v.

Anh chàng Bartimê trong bài Tin Mừng hôm nay tuy mù nhưng cũng có thị lực tốt vì anh đã thấy được Ðức Giêsu là Ðấng Messia “Con Vua Ðavít”.

Không phải chúng ta có đôi mắt tốt thì đương nhiên chúng ta có thị lực tốt đâu. Vậy chúng ta hãy xin với Ðức Giêsu: “Thưa Thầy xin cho con được thấy”.

  1. Ðứng trước một người tàn tật

Ðoạn Tin Mừng của Thánh Marcô kể chuyện Chúa Giêsu cứu chữa một người mù có thể gợi lên vài suy nghĩ:

  1. Ở đời chúng ta thấy có nhiều người tàn tật: có người thì mù, có người thì què, có người thì câm, có người thì rối loạn thần kinh… Trong số họ, có những kẻ bị tàn tật vì do một tai nạn, nhưng cũng có rất nhiều người bị tàn tật như thế ngay từ lúc mới sinh.

Ðứng trước những người tàn tật ấy, người ta có thể có nhiều thái độ khác nhau: trẻ con thì vô tâm đến tàn nhẫn và chọc ghẹo những người đó “1,2,3 thằng cha bán kẹo què giò, còn một giò đi kéo xe lôi”; những kẻ có lòng hơn thì không nở chọc ghẹo nhưng ngậm ngùi tội nghiệp thông cảm; người thân của kẻ tàn tật thì đau khổ xót thương: năm 1962, tại thành phố Liège nước Bỉ có một bà mẹ sinh ra một đứa con hình dáng không ra con người mà là giống như một con vật. Bà đau đớn quá và giết chết đứa con ấy đi. Người ta đem bà ra toà vì tội giết con. Nhưng toà án tha bổng vì thông cảm với nỗi đau khổ của bà và nỗi đau khổ của đứa con ấy nếu nó sống và phải gánh chịu.

Nhưng ngoài những thái độ chọc ghẹo, tội nghiệp và thương xót đó, người tín hữu chúng ta còn có thể có suy nghĩ nào hơn nữa không? Thưa có, đó là suy nghĩ về cuộc đời và những bất công của cuộc đời. Cuộc đời này quả thực có nhiều bất công: có người sinh ra thì mạnh khoẻ xinh đẹp, có người sinh ra thì tàn tật xấu xí. Có kẻ sinh ra đã nằm sẵn trong một gia đình giàu có, địa vị; còn có kẻ sinh ra nhằm một gia đình cơ cực túng thiếu. Một người vừa mới sinh ra đã mạnh khoẻ, thông minh và thuộc một gia đình giàu có thì hầu như sẽ rất dễ thành công trong đời; còn một người sinh ra mà tàn tật, ngu đần lại nghèo khổ nữa thì rất khó mà ngóc đầu lên được trong xã hội. Thử hỏi những kẻ xấu số đó bản thân của họ có làm gì nên tội mà phải gánh chịu những thiệt thòi như vậy? Họ không có tội nhưng họ phải chịu thiệt thòi, đó là một sự bất công.

Mà bất công thì đòi hỏi phải sửa lại cho công bằng. Nhưng có những trường hợp không thể sửa lại cho công bằng được. Chẳng hạn trường hợp cái quái thai do bà mẹ người Bỉ kia sinh ra, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Bà mẹ ấy đã giết nó chết đi, như thế có phải là công bằng không? chắc chắn là không. Còn nếu không giết chết nó thì phải nuôi sống nó, nuôi thật chu đáo, đầy đủ, cưng chiều nó đủ thứ, nhưng như thế có phải là công bằng chưa? Cũng chưa vì chăm sóc chiều chuộng bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là xoa dịu phần nào những đau khổ của nó mà thôi, chứ không thể nào bù đắp được những thiệt thòi cho nó bằng một người bình thường không tàn tật. Bất công cũng vẫn còn là bất công thôi.

Nhưng chính những cái bất công ở đời này và sự bất lực không tạo được sự công bằng ở đời này đã giúp cho chúng ta tin rằng phải có một thế giới công bằng ở đời sau. Bởi vì nếu tất cả đều kết thúc ở đời này thì thật là chua xót quá đối với những kẻ xấu số tàn tật, thà họ không được sinh ra còn hơn. Thiên Chúa, Ðấng đã tạo dựng nên họ không thể nào tàn nhẫn quá đến nỗi tạo ra họ chỉ là để cho họ chịu khổ đau. Vì thế mà chắc chắn phải có một cõi đời sau, khi đó mọi bất công sẽ không còn, những thiệt thòi sẽ được bù đắp xứng đáng, và công bình sẽ được thực hiện trọn vẹn.

Ðó là ý nghĩa của những lời cầu nguyện đầy tin tưởng mà những kẻ xấu số đã kêu lên trong thánh vịnh 125: “Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận cho con, như những dòng suối ở miền Nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan”. Mà cũng là ý nghĩa lời hứa hẹn ngầm của Chúa Giêsu khi ra tay cứu chữa anh Bartimê khỏi bị mù trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là điều mà tiên tri Giêrêmia tiên báo trong bài thánh thư hôm nay “Ta sẽ lấy lòng từ bi mà dân dẫn dắt những kẻ đui mù què quặt…”

Tóm lại, những cảnh bất công ở đời vừa làm cho lòng ta thương cảm, mà cũng vừa giúp chúng ta tin chắc rằng phải có một cõi đời sau, công bằng hơn, hoàn hảo hơn và hạnh phúc hơn. Ở đời này có một số bất công mà con người không thể nào bù đắp cho công bằng được, như tàn tật chẳng hạn.

Nhưng chính các bất công không bù đắp được mấy khiến loài người mơ tối một cõi đời khác sẽ không còn bất công.

Và qua phép lạ cứu chữa một người mù, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền năng TC có thể tạo ra một cõi đời như thế.

Như vậy phép lạ này là một bằng chứng về cõi đời sau. Ðó là niềm tin của người Công giáo chúng ta.

  1. Tâm sự của một người mù

Helen Keller bị mù và điếc từ lúc mới 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau:

Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì. Cô bạn đáp: “Chẳng có gì đặc biệt cả”.

Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ “Không thể nào như thế được”. Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và sự mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.

Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, người mù ăn xin đã cảm nghiệm tất cả mỗi khốn cùng của mình, nên khi gặp Ðức Giêsu, anh đã van nài Chúa thương xót. Chúng ta hãy van nài xin Chúa thương xót chúng ta:

  1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn trở thành ánh sáng đem lại hy vọng / cho những người đang sống trong bóng tối của lầm lạc và thất vọng.
  2. Xin cho các nhà cầm quyền trong xã hội / biết lo lắng cho những người mù lòa bệnh tật / để giúp họ được chữa lành / hoặc được sống trong niềm vui và hạnh phúc.
  3. Xin cho những người bị đui mù cả phần xác lẫn phần hồn / được có dịp gặp gỡ Ðức Giêsu / và được Ðức Giêsu thương chữa lành.
  4. Xin cho anh chị em giáo hữu trong xứ đạo chúng ta luôn ý thức rằng / bệnh đui mù phần hồn còn tai hại hơn đui mù phần xác / để luôn nài xin Chúa gìn giữ mình thoát khỏi căn bệnh tai hại ấy.

Chủ tế: Lạy Chúa, đức tin của chúng con còn yếu kém và nhiều khi còn mù quáng, chúng con nài xin Chúa thương ban thêm đức tin, để chúng con trở nên đèn sáng dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô…

  1. Trong Thánh lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta không còn mù lòa nữa, nhưng thấy được thánh ý Chúa Cha trong cuộc đời chúng ta.

VII. Giải tán

Sau khi được Ðức Giêsu chữa khỏi mù, anh Bartimê đã nhìn thấy được và đi theo Ðức Giêsu trên con đường Ngài đi. Chúng ta cũng được Chúa cho thấy con đường mà chúng ta phải đi để theo Chúa. Chúng ta hãy hăng hái tiến bước trên con đường ấy.

 

11. “Xin cho con được thấy”

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một anh mù đi thăm một người bạn. Trời tối khuya. Anh sợ người khác đụng vào mình nên anh đã có một sáng kiến. Anh đội đèn lên đầu để người khác trông thấy anh mà tránh. Anh hân hoan bước đi. Thình lình anh va vào một người làm cái đèn rớt xuống bể nát. Anh tức giận và chửi: “Mày mù hay sao mà không thấy đèn của tao”. Người kia trả lời rằng: “Đèn mày còn sáng đâu mà tao trông thấy”.

Cái đáng thương của anh mù là không biết đèn mình đã tắt. Anh chong đèn không phải để anh bước đi cho rõ mà quan yếu là nhờ ánh sáng để người khác đừng đụng phải anh. Nhưng anh đâu ngờ đèn anh đã tắt tự bao giờ! Vâng, mù đôi mắt là một bất hạnh. Bất hạnh vì đi lại khó khăn. Bất hạnh vì không còn nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của những người thân yêu, của cuộc sống quanh ta. Song song với cái đáng thương của sự mù loà thể xác còn có cái đáng thương của mù loà về luân lý, về chân thiện mỹ, đó là sự mù loà của tâm hồn. Cái đáng thương của mù loà tâm hồn là họ mù nhưng không chấp nhận mình mù. Họ vẫn bước đi trong vùng tối của tội lỗi, của đam mê nhưng không nhận ra sai trái của mình. Họ có cái nhìn lệch lạc về luân lý, về chân thiện mỹ nhưng đáng thương thay, họ vẫn cố chấp sống theo quan điểm của mình. Chính sự ngộ nhận đó đã giết chết cuộc đời họ và chắc chắn cũng gây nên đau khổ, có khi tổn thất cho những người chung quanh vì sự u tối và dốt nát của mình.

Bài tin mừng hôm nay được thánh Marcô ghi lại, có lẽ không nhằm nói về sự bất hạnh của người mù thể xác. Vì thời Chúa Giêsu cũng như thời nay người mù loà thí rất nhiều. Nhưng Chúa Giêsu chỉ chữa lành một vài trường hợp, trong đó có trường hợp chữa lành người mù thành Giêricô tên là Bactimê. Hơn nữa, những phép lạ của Chúa Giêsu thường liên hệ đến việc chữa lành tâm hồn. Anh mù Bactimê chỉ được chữa lành khi anh cố đến với Chúa. Anh quyết tâm chỗi dậy, dứt bỏ chốn xưa đã giam hãm cuộc đời anh. Anh cậy dựa vào Chúa để mong muốn thay đổi cuộc đời.

Thực vậy, anh mù Bactimê được Chúa chữa lành nhờ thiện chí của anh. Dù rằng người đời cản ngăn anh. Dù rằng thế gian muốn anh mãi mãi là người mù ăn xin bên vệ đường thành Giêricô. Anh đã mạnh dạn kêu cầu Chúa: “Lạy ông Giêsu, con Vua Đavít xin dủ lòng thương”. Với thiện chí của mình anh đã dũ bỏ áo choàng ăn xin, dũ bỏ góc đường Giêricô mà bấy lâu nay anh vẫn ngồi đó để chờ bố thí, và rồi với đức tin mạnh mẽ anh đã được Chúa chữa lành, để từ nay anh trở thành một con người được tôn trọng giữa cộng đoàn, và hơn thế nữa anh còn có thể trở thành môn đệ của Chúa Giêsu.

Ngày nay, loại mù về tâm hồn rất nhiều. Nguyên nhân có thể là do hoàn cảnh, do môi trường. Có thể do thiếu hiểu biết. Có thể là do đam mê, lười biếng. Có thể là vì thiếu trách nhiệm nên cố tình mù loà để hưởng bổng lộc của thế gian bố thí.

Có những bạn trẻ đã chạy theo xu hướng sai lầm của thời đại, quá tự do về giới tình, quan hệ nam nữ bừa bãi dẫn đến hủy hoại tâm hồn và thể xác. Có những cô gái trẻ đã phá đi cái thai là hậu quả của những giây phút bồng bột, lầm lỡ vì họ đã thấy trong gia đình, trong xóm làng đã có nhiều người làm thế nên mình làm theo.

Có những người trở thành những con nghiện của sì kẻ, ma túy do thiếu hiểu biết nên sa vào con đường tội lỗi và tự huỷ diệt thân xác mình mà không hay.

Có những người vì đam mê rượu chè, ham thích đỏ đen mà hủy hoại thanh danh không chỉ của mình, đôi khi còn ảnh hưởng xấu đến gia đình. Có những người vì rượu chè, cờ bạc đã đẩy gia đình đến khánh tận bần cùng mà họ vẫn trơ trẽn sống theo đam mê của mình.

Có những người vì một chút bổng lộc thế gian đã bán mình làm tôi cho ma quỷ, trở thành một Giuđa bán Chúa và làm hại anh em. Cuối cùng chỉ còn lại sự thất vọng, cô đơn và chán chường.

Hậu quả của những ngừơi mù mất ý thức này là huỷ diệt chính mình, hủy diệt thân xác và cả linh hồn. Còn đâu sự trong sáng của linh hồn là hình ảnh Thiên Chúa! Tất cả đã bị bôi nhọ bởi chính sự lầm lẫn đáng thương của chính mình.

Xem ra người mù thành Giêricô thật có phúc vì anh ý thức được sự mù loà của mình. Anh đã vượt qua mọi trở ngại để chạy đến nương nhờ lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ, với hành vi đấm ngực ăn năn, không phải là máy móc, vụ hình thức mà là sự nhức nhối của con tim đầy nuối tiếc về sự mù loà tâm linh của mình dẫn đến biết bao điều sai quấy, gây lo âu bất an cho tâm hồn, và gây đau khổ cho gia đình. Ước gì chúng ta luôn khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để cần Chúa chỉ đường dẫn lối, và chữa lành khỏi những u mê của cõi lòng, để chúng ta luôn hân hoan bước đi trong ánh sáng của tin mừng, của chân thiện mỹ, của nẻo chính đường ngay. Ước gì cặp mắt của tâm hồn chúng ta luôn đủ sáng để nhận ra đâu là thiện, là ác, để luôn hành động đúng theo lương tri của một con người. Amen.

 

12. Mù có phải là bất hạnh không?

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Khi nghĩ đến người mù, nhất là những người bị mù bẩm sinh, ta thường nghĩ đến hai chữ “tội nghiệp”, “đáng thương”, hay “bất hạnh”. Dĩ nhiên có khi chính bản thân người mù cảm thấy bất hạnh thật vì họ không được nhìn thấy ánh sáng, không được nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên, nhất là không được nhìn thấy những người thân yêu của mình. Và ngay cả khái niệm về màu sắc, họ cũng không biết đến.

Tuy nhiên, giữa người mù và người sáng, chưa chắc ai bất hạnh hơn ai. Có khi vì mắt sáng tỏ, nên người ta bất hạnh hơn là bị mù loà. Bằng chứng là trong các vụ án trộm cắp, lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại tình,…, ta có thấy thủ phạm nào là người mù không, ngoại trừ những người sáng mắt? Trong số những dân chơi cuồng quay nơi các vũ trường ngập ngụa ma tuý, thuốc lắc, hàng “đá”, ta có bắt gặp bóng dáng người khiếm thị nào bên cạnh những người mắt sáng ở đó không? Trước vành móng ngựa xét xử các quan tham vô lại, có lẽ ta cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là kẻ mù loà ở đấy; có chăng chỉ toàn là những người cả hai mắt đều tỏ đều tường!!! Và nếu ta cất công thắp đuốc đi tìm các tù nhân là người mù trong các trại giam, chắc chắn ta sẽ thất vọng vì nơi đó chỉ thấy toàn những người có đủ cả hai mắt. Vậy thì ai “bất hạnh” hơn ai? Người mù hay người sáng? Bởi thế, khi nhìn thấy một người mù, khoan đã cho rằng người đó tội nghiệp, người đó bất hạnh. Hạnh phúc hay bất hạnh không hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt thể lý, nhưng là hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt tâm hồn, cặp mắt đức tin.

Trong câu chuyện Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, ta thấy Bartimê là một người mù loà, hành khất bên vệ đường ngoại thành Giêricô. Không biết anh có thuộc “Hội Người Mù” nào hay không! Song thiết tưởng anh là một người lương thiện. Anh sống bằng những gì kiếm được từ lòng hảo tâm của người khác. Mặc dù nghèo, nghèo nên phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời anh thanh thoát. Anh sống vô tư giản dị, không bon chen giành giật, không tính toán hơn thua, không đua đòi ăn diện. Anh cũng không vợ nọ con kia, không rượu bia các thứ. Có lẽ anh cũng chưa bao giờ phạm vào những tội “đội sổ” của con người thời đại hôm nay: buôn gian bán lận, lậu thuế trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút ruột các công trình xây dựng… Suốt cả cuộc đời, chắc hẳn anh cũng chưa hề lường gạt, bóc lột hay hãm hại ai. Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay chính.

Hơn thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng đôi mắt thể lý, lại mù loà trước ánh sáng vô hình, không thể nhận ra Chúa Giêsu là ai, thì anh mù Bartimê này lại “thấy tỏ tường” chính Đức Giêsu là ai. Anh không van xin Chúa bằng danh xưng “Giêsu Nazareth”, mà dùng danh xưng “Con Vua Đavít” – một danh xưng ám chỉ tước hiệu Đấng Mêsia. Tiếng kêu lớn tiếng của anh khi bị mọi người ngăn cản: “Lạy Con Vua Đavít”, đồng thời cũng là một lời tuyên xưng niềm tin vào chính Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng mà anh tin là sẽ phục hồi sự sáng cho anh. Bởi đó, khi được Chúa Giêsu hỏi anh muốn xin gì, anh không xin Chúa Giêsu mua cho anh mấy tờ vé số, cũng không xin Chúa Giêsu cho anh ít đồng bạc cắc bố thí, như anh đã từng nói với những người qua lại, mà anh chỉ xin Chúa Giêsu cho anh được thấy, tức là được sáng mắt. Nếu không tin Chúa Giêsu là Đấng có thể mở được mắt cho nguời mù bẩm sinh, anh đã không xin Ngài điều này.

Đồng ý “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”, nhưng không phải một khi “cửa sổ” ấy bị đóng vĩnh viễn do mù loà là đương nhiên tâm hồn trở nên tối tăm băng giá như vùng bắc cực đâu. Ngược lại nữa là khác. Khi đôi mắt của họ không còn khả năng thấy được những thực tại hữu hình, thì tâm hồn họ lại rất bén nhạy với những thực tại vô hình. Bởi đó người ta bảo rằng người mù thường cảm nhận rất sâu xa về những thực tại siêu linh, và họ cũng rất nhạy bén trước những nỗi thống khổ của anh em đồng loại. Nói cách khác, người mù thường có cặp mắt đức tin sáng tỏ, như trường hợp anh mù Bartimê hôm nay.

Dẫu chưa một lần được gặp gỡ hay diện kiến Đức Kitô; chưa một lần được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng dạy, cũng chưa một lần được phúc chứng kiến các phép lạ Ngài đã làm; anh chỉ mới được nghe người ta nói về con người của Đức Giêsu; thế mà anh đã tin. Anh tin một cách mãnh liệt. Và nhờ niềm tin đó, anh đã gặp được hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân của những mối phúc thật là Đức Giêsu Kitô. Anh được Chúa phục hồi sự sáng, sự sáng của cặp mắt thể lý, và quan trọng hơn là cặp mắt đức tin nơi anh vốn đã sáng nay sáng tỏ hơn. Từ đây đời anh hoàn toàn đổi mới. Còn hạnh phúc nào bằng? Anh đã tự nguyện dấn bước theo Chúa trong niềm vui trào tràn.

Lạy Chúa, sẽ thật hạnh phúc cho con, nếu con có đôi mắt thể lý lẫn đôi mắt tâm linh sáng ngời. Ngược lại sẽ thật bất hạnh cho con nếu con có đôi mắt thân xác sáng tỏ nhưng đôi mắt tâm hồn lại mù tối như đêm 30. Con xin tạ ơn Chúa vì ngài đã ban cho con có đôi mắt thể lý chưa một lần phải đến bác sĩ nhãn khoa. Xin Người gìn giữ con để đôi mắt đức tin của con cũng luôn được tinh tường sáng suốt. Đặc biệt xin Chúa cho những người mù luôn giữ được cái tâm trong sáng để cuộc đời của họ không bao giờ là “bất hạnh”, là “đáng thương” như người ta vẫn nghĩ. Amen.

 

13. Mù lòa

Cách đây không lâu khi lớp chúng tôi đến học hỏi thực tập mục vụ tại một họ đao thuộc thành phố Cần Thơ; sau khi nghe cha sở chia sẻ về công việc mục vụ: cha lo lắng cho giáo dân từ tinh thần cho đến vật chất, cha không chỉ chú tâm xây dựng nhà thờ vật chất , mà cha còn lo xây dựng nhà thờ tinh thần trong lòng giáo dân. Nhưng điều làm tôi đánh động nhất chính là cách cha đối xử với người nghèo, người bệnh tật cô đơn… cha luôn quan tâm đến họ cách đặc biệt. Cha thật là người mục tử cho chúng tôi học hỏi và noi theo. Thì hôm nay bài Tin Mừng lại giới thiệu cho tôi một mẩu gương phục vụ tuyệt hảo hơn rất nhiều. Đó là Đức Giêsu người đã động lòng trước sự kêu xin tha thiết của người mù bất hạnh ngồi ăn xin bên vệ đường.

Anh mù hôm nay không hề thấy Đức Giêsu, nhưng anh đã nghe biết nhiều về người, Khi Đức Giêsu đi ngang thì đúng là cơ hội “ngàn năm một thuở”. Lập tức anh ta đã kêu to lên để được Đức Giêsu chú ý. Chắc những người đi theo Đức Giêsu lúc đó rất khó chịu, vì họ đang nghe những lời giáo huấn của Đức Giêsu, mà anh mù này lại hét to hết sức có thể, thì đúng là một sự xúc phạm không thể chịu được. Cho nên những người đi trước “mắng bảo anh ta nín đi”. Nhưng lúc này không có gì có thể ngăn cản anh ta, anh quyết phải gặp cho được Đức Giêsu con người mà bấy lâu anh hằng mong đợi. Tuy anh không thể thấy nhưng trong tâm trí anh nhìn thấy Đức Giêsu lúc này không phải là một sự mơ hồ, lờ mờ, hoặc do cảm xúc. Nhưng đây là một ước muốn thiết tha. Và cũng chính ước muốn này đã khiến cho mọi sự được thành.

Chính lòng tha thiết mà anh đã được Chúa Giêsu “dừng lại”. Vì Ngài không phải là mục tử của kẻ kiêu căng ngạo mạn, mà Ngài là vị mục tử của những người bất hạnh nghèo nàn, là vị cứu tinh nhân hậu, Đặc biệt ứu ái với đám dân kém may mắn. Ngài nhìn đến con người mù lòa. Ngài đã để ý bên vệ đường và thấy tình trạng thống khổ, không ai lưu tâm, không ai lắng nghe lời của một người ăn xin, tệ hơn nữa còn muốn cho anh ta im đi. Nếu Ngài không là người quan tâm đến họ, không tinh ý thì khó có thể nghe thấy được. Việc anh mù ao ước xin chữa lành, còn đáng giá hơn ngàn lần sự cuồng nhiệt của dân chúng. Hay giấc mơ vinh quang và hy vọng tiến thân, tranh giành quyền lực địa vị không chính đáng của các môn đệ….Hình ảnh anh mù lúc này la một tấm lòng tuyệt diệu trong ánh mắt của Đức Giêsu. Ngài đả phá việc cổ vũ cuồng nhiệt bên ngoài mà trong lòng không chút gì khao khát Thên Chúa, Ngài thông cảm giữa bậc cao sang và kẻ hèn hạ, giữa người thông sáng với kẻ mù lòa, giữa người thi ân và kẻ lãnh nhận.

Nếu xét về mù lòa tâm hồn thì không những chỉ có trong đám đông theo Chúa Giêsu hôm nay, nhưng có rất nhiều người kể cả các tông đồ. Khi chữa lành người mù Đức Giêsu nói: “lòng tin của anh đã chữa anh”. Ngài muốn gửi đến một thông điệp cho tất cả chúng ta, cũng như cho các tông đồ là phải có niềm tin thì mới được lành mạnh. Nhờ tin mà người hành khất được thấy ánh sáng, cơ hội này cũng là dịp cho các Tông Đồ được mở trí soi lòng và xứng đáng được tháp tùng với Ngài lên Giêrusalem. Người mù đã được sáng, lòng tin là ánh sáng mới, ánh sáng đó đã giúp phát hiện ra những thực tại bị che khuất, giúp khám phá những điều chưa ai biết. Ánh sáng này giúp khám phá những điều vượt khỏi giác quan và lý trí con người. Ai không nhìn thấy Ánh Sáng này mới chính người mù thật sự.

Điều làm cho Đức Giêsu đau lòng nhất chính là những người đang mù mà lại không biết mình mù, cứ ảo tưởng cho mình là sáng, là tốt đẹp…không cần đến ai chỉ đường cả. Thậm chí là Thiên Chúa họ cũng chẳng màng. Chính vì thế đòi buộc người tín hữu phải mau mắn thi hành chức vụ tiên tri mà mình đã lãnh nhận, có bổn phận dìu dắt chỉ đường cho họ biết tìm đến ánh sáng. Nhưng chúng ta phải làm thế nào giữa một xã hội luốn đòi hỏi những chứng cứ cụ thể. Vì thể, nếu chỉ rao giảng bằng lời nói thì đó chỉ là thứ lý thuyết suôn vô bổ. Lời rao giảng đó phải được cụ thể hóa bằng hành động, bằng cuộc sống vị tha, bác ái, mới may ra giúp họ nhận ra mình đang bị mù mà nói với Chúa: “Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy”

Cuối cùng tôi xin mươn lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô làm lời nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cây vào nơi thất vọng, để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến chốn u sầu…”. Amen.

 

14. Thiên Chúa, Đấng chuyên gia chữa lành

(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)

Một thanh niên lập gia đình và có hai con. Vì là con một, nên ngay từ nhỏ, được cha mẹ nuông chiều muốn gì có đó. Trong một tai nạn, kính xe hơi của anh vỡ bể tan nát văng vào cả hai mắt anh, và dù gia đình tìm mọi cách chữa chạy, cuối cùng cũng phải chấp nhận cho bác sĩ khoét hai con mắt của anh. Lúc đó tất cả bầu trời như muốn sụp đổ xuống cuộc đời anh, anh tỏ ra tuyệt vọng và không còn muốn sống nữa. Thế nhưng, ngày kia có một nữ tu trước đây khi còn ở ngoài, học cùng lớp với anh đến thăm, động viên và tỏ lòng cảm thương với nỗi khốn khổ của anh; đồng thời trước khi ra về, chị nữ tu này đã tặng anh một đĩa audio cuốn sách Ý Nghĩa Sự Đau Khổ của Cha Tuyên dòng Chúa Cứu Thế, và cáo biệt ra về. Trong lúc buồn sầu chán sống, tự nhiên nhớ đến đĩa CD người bạn mới cho, liền nói bà xã cho vào máy mở nghe cho đỡ buồn thôi, nhưng không ngờ càng nghe càng thấy thấm thía thích nghe và tìm được niềm vui trở lại dần dần, nhất là anh đã tìm được ý nghĩa của cuộc sống nhân sinh của con cái Chúa. Có lần anh tâm sự với tôi một cách rất tích cực rằng: Thưa Cha, nhờ bị mù hai mắt thể lý mà mắt tâm hồn con được mở ra, sáng lên và nhận ra đời thật vui tươi như Cha đang thấy nơi con đây. Lạ không, thưa bạn!

Vâng đúng thế, tôi với bạn mỗi người chúng ta đều mang những tật nguyền và bệnh hoạn cả về tâm linh lẫn thể xác, và rất cần được chữa lành để sống khỏe, sống bình an hạnh phúc. Nhưng rất may mắn, loài người chúng ta có một Thiên Chúa là Cha, và Ngài không bao giờ mệt mỏi chữa lành những tật nguyền bệnh hoạn của con cái loài người hầu đem lại hạnh phúc đời này và đời sau trên nơi vĩnh phúc cho chúng ta.

Bài Tin mừng hôm nay soi dẫn cho biết mọi người chúng ta đều mắc những bệnh mù nguy hiểm, tuy mức độ khác nhau, nhưng không ai có thể tự hào là tôi không bị mù chút nào. Và tôi có thể tóm lại các bệnh mù thành ba loại như sau:

– Mù trong việc nhận biết Thiên Chúa là Cha Toàn Năng Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình…

– Mù trong việc nhận biết anh chị em của mình trên toàn thế giới.

– Mù trong việc nhận biết chính thân phận mình chỉ là hư vô bọt bèo, tất cả những gì mình có, mình là, mình làm được đều là do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho.

Vậy thì, Phải chăng mỗi lần chúng ta làm tôi phụng thờ Chúa,mỗi lần chúng ta tham dự cử hành phụng vụ,mỗi lần chúng ta cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích, là mỗi lần chúng ta bớt bị mù hơn về Thiên Chúa là Cha hay yêu thương chúng ta?

Phải chăng mỗi lần chúng ta yêu thương,tha thứ, cảm thông và đối xử tử tế với một trong những người bé mọn của Thiên Chúa, là mỗi lần mắt tâm hồn chúng ta trở nên sáng hơn trong việc nhận ra anh chị em con cùng Cha, cùng Mẹ trên trời với mình?

Và phải chăng, mỗi lần chúng ta hạ mình khiêm tốn, không dám cho mình hơn ai,không dám nhận sức riêng mình có gì, vì tất cả đều là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho…,là mỗi lần chúng ta bớt bị mù,bớt bị hoa mắt hơn bởi những ảo tưởng muốn cho mình là cái rốn của vũ trụ này?

Thưa Bạn,

Như vậy, có lẽ bạn và tôi cũng cần phải quỳ xuống mà cầu xin: Lậy Chúa xin cho chúng con được thấy, thấy Chúa, thấy anh chị em con,thấy chính mình con…để con dám can đảm sống như chúng con đã thấy.

Đôi khi lời cầu nguyện của chúng ta có thể bị thử thách, bị cám dỗ,làm cho lời cầu nguyện có nguy cơ bỏ ngỏ dở dang, đứt đoạn vì thấy mãi mà chưa được thẩm nhận, làm chúng ta chán ngán muốn bỏ không tin, không cầu nguyện nữa, thì lúc đó, chính Chúa lại ra tay đích thân an ủi động viên khích lệ ta tiếp tục đi đến cùng của lời cầu nguyện với lòng tin tưởng hơn, như Chúa đã động viên người mù cứ vững tin khi thấy người ta ngăn cản không cho anh ta kêu gào to hơn lên tới Chúa.

Nào bạn và tôi cứ tiếp tục gào lên, cứ tiếp tục gõ chiếc thùng hành khất của chúng ta cho đến khi nào Chúa đổ đầy ân sủng của Ngài vào, cho đến khi chúng ta nghe thấy Ngài nói với chúng ta lời đầy an ủi: “Lòng Tin của con đã cứu chữa con”, bạn nhé! Chúc bạn thành công!

 

15. Đôi mắt Đức Tin

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương.

Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời,

Để nhìn đời và để làm duyên.

Mẹ cho em đôi mắt màu đen,

Để thương để nhớ, để ghen để hờn.

Đôi mắt em là cửa ngõ tâm hồn,

Là bài thơ hay nhất,

Là lời ca không dứt,

Là tuyệt tác của thiên nhiên.

Đôi mắt là cửa ngõ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.

Thi sĩ Lưu Trọng Lư đã viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:

Mắt em là một dòng sông,

Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.

Cô gái nhớ nhung chàng trai phố núi dù chỉ mới gặp gỡ qua “đôi mắt”.

Tôi đã gặp đôi mắt người phố núi,

Chiều cao nguyên trong khói toả sương mù,

Chẳng hề quen sao đôi mắt hẹn hò?

Trong giây phút làm hồn tôi rung cảm.

Tôi đã yêu đám mây chiều lơ đãng,

Những đường mòn,những đồi dốc không tên,

Đôi mắt anh làm tôi thấy yêu thêm,

Thành phố núi những buổi chiều hiu hắt.

Sao tôi chỉ yêu người qua đôi mắt?

Đôi mắt buồn như phố núi hoàng hôn,

Anh có là thi sĩ lúc chiều buông?

Đang mơ mộng tìm vần thơ viết dở.

Đôi mắt.Trời ơi, kiêu kỳ hoang dã!

Anh nhìn tôi rất lạ rất thân tình,

Anh đã làm chảy máu trái tim xinh,

Đêm phố núi về tương tư đôi mắt.

Tôi đến đây, miền cao nhiều gió lạnh,

Chỗ thân quen ở lại một đôi ngày,

Mai mốt về tôi biết nhớ gì đây?

Hay chỉ nhớ một chàng trai phố núi?

Tôi sẽ về, chắc lòng còn tiếc nuối,

Tình cảm này tôi biết gởi về đâu?

Khi tôi và anh chưa biết tên nhau,

Hy vọng gì sau một lần gặp gỡ!

Tôi sẽ về, chắc không còn gì nữa!

Anh cũng xa vời như gió như mây,

Tình yêu của tôi lãng mạn phút giây,

Nhưng tôi sẽ thương nhớ hoài đôi mắt. (Thanh Dương)

Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp.

Thế nhưng, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu của sách Sách Sáng thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng” (St 3, 4–7).

Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:

– Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.

– E-và nhìn trái táo và thấy sướng mắt.

– Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.

Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: “mắt cả hai người đã mở ra”. Không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. “Mắt hai người đã mở ra”. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. A-đam – E-và đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế. (x.Nước mắt và hạnh phúc trg 69–71, Lm Nguyễn Tầm Thường).

Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ.

Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian.

“Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thưở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian. Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin.

Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin.

Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Si-lô-ác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pha-ri-siêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Si-lô-ác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.

Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?” thì anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin.” Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.

Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin.

Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài.

Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Ngài mở mắt cho Gia-kêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9, 1-10). Ngài mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7, 36-50). Ngài mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23, 32-43)…

Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. Ðôi mắt đức tin giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa và yêu mọi người, mọi sự trong Chúa và yêu như Chúa đã yêu.Nhiều Thánh vịnh giúp chúng ta tập nhìn cuộc đời và con người bằng đôi mắt tin yêu, như Thánh vịnh 104, các Thánh vịnh Job 38-39.

Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngõ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt thì đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Bar-ti-mê tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Chúa Giêsu là Ðấng Mes-si-a “Con Vua Ðavít”. Anh kêu xin: “Rabbuni, xin cho tôi được thấy”, và Chúa Giêsu trả lời: “Hãy đi! Niềm tin của con đã cứu chữa con”. Bar-ti-mê được thấy và anh theo Chúa Giêsu trên con đường của Người ; khi thấy được, anh cùng hành hương lên Giê-ru-sa-lem (x. Đức Giêsu thành Nazareth phần II, trg 13). Bar-ti-mê thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy Chúa là con vua Đa-vít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.

Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt.

Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt.

Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên.

Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.

Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân con

với những yếu đuối và khuyết điểm,

nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa;

từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng,

để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.

 

16. Xin cho con được thấy – Hiếu Nguyễn

CHUYỆN MINH HỌA LỜI CHÚA

  1. Sáng mắt đức tin

Một nhóm sinh viên tham quan mỏ than Scottish ở Anh quốc. Mỗi người được phát cho chiếc nón bảo hộ của thợ mỏ, phía trước nón có gắn bóng đèn nối liền với bình điện đeo ngang lưng. Người hướng dẫn đưa họ vào hầm than tối mịt, nên bảo họ bật đèn lên. Khi đến khu khai thác, người hướng dẫn lại bảo họ tắt đèn hết. Lúc đó họ không thấy gì cả. Và ông ta nói cho họ biết, “Đây là tình trạng bi thảm của những người mù.” Thế là các sinh viên đã hiểu ra bị mù thì khốn khổ vì không thấy được gì cả, như họ đang ở trong cảnh tối tăm này.

  1. Thế giới mù lòa

Ông Hosesaramago là văn sĩ người Bồ đào nha đã được giải thưởng văn chương năm 1998. Một trong các tác phẩm nổi tiếng của ông là cuốn “Mù lòa,” diễn tả một thành phố bất thần bị dịch mù lòa như sau:

Người đầu tiên bị mù là một người đàn ông lái xe và chờ đèn giao thông. Một người hào hiệp dẫn ông về nhà rồi chôm luôn chiếc xe của ông. Và anh này cũng mù luôn. Bác sĩ nhãn khoa khám mắt cho anh xong cũng bị mù. Và nạn dịch mù lan tràn khắp thành phố! Người ta phải tập trung những người mù vào bệnh viện. Và cuộc sống của những người mù này chẳng khác nào địa ngục trần gian. Họ căm thù mù lòa, họ căm thù lẫn nhau.

Trong đám người mù lòa có một người nữ giả mù để sống với chồng là bác sĩ nhãn khoa. Bà ta dẫn đám người mù ra khỏi bệnh viện, nhưng cuộc sống của họ ngày càng đau khổ. Họ lạc lõng khắp nơi, không ai biết đường về nhà, chẳng ai giúp đỡ được ai, đường sá đầy rác rến, người chết ngổn ngang! Trong trang cuối của tác phẩm “Mù lòa” khi nạn dịch dứt đi, các nhân vật lý giải như sau, “Tại sao chúng ta mù? Tôi không nghĩ là chúng ta hóa mù. Chúng ta mù mà có thể nhìn thấy, nhưng chúng ta không thèm nhìn thấy!”

  1. Người ta quát nạt anh ta

Cách đây mấy năm, có hai người cha mẹ kể lại cái chết của đứa con trai họ, “Thứ năm vừa qua, chúng tôi chôn cất đứa con trai chúng tôi. Câu chuyện xảy ra là hôm thứ ba, nó vào phòng ngủ của nó và tự sát. Nó bắn vào thái dương của nó, viên đạn xuyên qua óc nó và nó đã chết. Nó tên là Mike.”

Tại sao Mike tự sát? Mike có rất nhiều bạn. Nó sống hết tình với bạn hữu nó. Ngược lại các bạn nó cư xử tệ với nó. Chẳng những không đáp lại thịnh tình của nó mà còn hất hủi nó, làm hại nó nên nó buồn phiền tuyệt vọng, mượn cái chết để khỏi còn thấy cảnh con người đối xử tệ bạc với con người như thế.

  1. Biết mình mù

Có mấy người mù được yêu cầu mô tả con voi. Dĩ nhiên họ không thể dùng mắt, họ phải dùng tay sờ để mô tả con voi. Người sờ vào lỗ tai voi thì bảo nó mềm, dẹp và không ở yên một chỗ. Kẻ sờ mũi voi thì mô tả nó dài, thon thon và cũng đứng ngồi không yên…

Đúng là mô tả rất thiếu sót, vì không dùng thị giác được. Thị giác giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn. Chính vì thế mà người mù phải sống trong bất hạnh khổ sở. Do đó Chúa Giêsu thương họ, sẵn sàng cứu chữa họ. Nhưng trước khi chữa cho họ, Người muốn họ phải ý thức thân phận mù lòa của họ. Vì thế trong Tin mừng hôm nay, khi người mù Batimaeus đến gần, Chúa Giêsu hỏi, “Anh muốn tôi làm gì cho anh” (Mc 10:51).

  1. Người mù nhìn thấy

Một người đàn bà mù tâm sự: Trước khi bị mù lòa, tôi là một phụ nữ rất tự mãn và độc lập. Tôi làm việc nuôi năm đứa con của tôi. Tôi cũng làm việc thiện nguyện. Nhưng gia đình tôi không được hạnh phúc, nên tôi định ly dị. Nhưng rồi tai nạn xảy đến cho tôi. Bác sĩ bảo phải giải phẫu mới chữa được. Trước khi giải phẫu tôi còn sáng mắt, sau khi giải phẫu tôi phải mù lòa. Giờ đây tôi không còn tính chuyện ly dị được nữa, phải chung sống với người mình không thương. Tôi cố làm việc nội trợ, nhưng chỉ làm rối trật tự trong nhà. Đứa con gái út của tôi xấu hổ vì có người mẹ mù lòa….

Thật là một cuộc sống lầm than cô độc.

Ngày nọ, tôi nói với chồng tôi là tôi muốn đi ra ngoài đổi không khí. Tôi đinh ninh chồng tôi cùng đi với tôi. Nhưng không, tôi một mình đứng ở góc đường. Bỗng có tiếng nói trong tôi, “Ngươi không còn ai. Đã đến lúc ngươi phải tự cứu lấy chính ngươi…”

Thế là tôi lần mò đến trung tâm hồi phục kể cho mọi người nghe câu chuyện của tôi. Ở đây, tôi gặp một người thanh niên mù từ lúc mới sinh. Anh chưa bao giờ biết một bữa tiệc mừng sinh nhật. Tôi về nhà cố làm cho anh một ổ bánh và tổ chức mừng sinh nhật anh ta. Anh thổi những cây nến mà anh không thấy, nhưng chắc chắn anh đã hưởng được niềm vui và tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Thế là tôi mù lòa, nhưng thấy được nhu cầu của người khác. Và tôi cố gắng giúp họ thỏa mãn.

  1. Tâm sự của một người mù.

Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Keller, ông Braille (1809-1852).

Ông Braille đã bị mù từ lúc ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là đại ân nhân của thế giới người mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.

Và đây cũng là tâm sự của bà Helen Keller. Keller bị mù và điếc từ lúc 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau :

Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì ? Cô bạn đáp : “Chẳng có gì đặc biệt cả”.

Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ “Không thể nào như thế được”. Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.

Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.

  1. Thánh Phanxicô Salêsiô.

Thánh Phanxicô Salêsiô có một đức tin mạnh mẽ, nhất là đối với Phép Thánh Thể. Ngài thường rao giảng cho dân vùng Chablais (Thụy sĩ) đang bị ảnh hưởng nặng của ly giáo Calvinô. Mỗi buổi tối, ngài hay đến trước nhà chầu sốt sắng cầu nguyện. Một hôm, đang mê say cầu nguyện thì có tiếng ai đi lại trong nhà thờ. Tưởng là kẻ trộm, ngài lên tiếng hỏi. Ai ? Một bóng người lạ đi tới và nói :”Thưa Đức Giám mục, con là người không có đạo. Con nghe Đức Cha giảng nhiều lần về Chúa Giêsu trong Thánh Thể, con không tin. Chiều hôm nay, con lẻn vào nhà thờ rình xem thái độ Đức Cha như thế nào. Con thú thực, đã nhìn thấy đức tin của Đức Giám mục. Giờ đây con xin Tin. “Lạy Chúa xin cho con được nhìn thấy”(Mc 46,51).

Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi ? Số người “thấy mà xem chẳng thấy”(kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.

Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.

Riêng chúng ta, những môn đệ của Chúa, ai dám nói mình không bao giờ bị mù trước những thực tại thiêng liêng ? Nhiều người cho là mình sáng mắt sáng lòng nhưng thực tế họ luôn mù tối không nhìn ra chân lý; và tệ hơn nữa họ vừa mù vừa hướng dẫn người khác thì hậu quả sẽ khôn lường.

  1. Chiếc đèn lồng.

Có một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò truyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói :

– Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau.

Người bạn trả lời :

– Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.

Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói :

– Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi ?

Người kia đáp :

– Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận : Con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.

Nhiều khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên :”Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tiếng Hy lạp là Kyrie eleison. Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy lạp, Ai cập, Liban… phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu” bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mệt mỏi những từ này : Iesou, Eùleison, Iesou, Eùleison…

  1. Tìm thấy mẹ nhờ con mắt tình yêu:

Vào một buổi chiều năm 1945, tại nhà ga Verona nước Italia, có khá đông dân chúng đang tập trung tại sân ga và náo nức chờ đón một số binh lính là người thân của họ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Lúc đó, một người lính trẻ bị mù hai mắt cũng đang lần mò từng bước trên sân ga. Khi tiến gần đến chỗ một phụ nữ lớn tuổi đang đứng chung với mấy người thân trong gia đình, đột nhiên anh lính mù dừng lại rồi kêu to lên: “Mẹ!”, và rồi hai mẹ con đã ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Một lúc sau, khi phát hiện ra cặp mắt của con trai đã bị mù hòan tòan, bà mẹ liền hỏi: “Con ơi, mắt con đã bị mù như thế mà sao lúc nãy con lại nhìn thấy mẹ giữa bao nhiêu người khác và kêu lên vậy?”. Anh lính trẻ liền đáp: “Thưa mẹ, tuy mắt con không thể nhìn thấy mặt mẹ như trước đây, nhưng chính trái tim đã mách bảo con là mẹ cũng đang có mặt tại đây và đang chờ đón con. Khi từ trên xe lửa bước xuống sân ga, con cứ đi theo sự mách bảo của trái tim và đến lúc con linh cảm chắc chắn mẹ đang ở rất gần bên con, thì tự nhiên con buột miệng la to lên “Mẹ!” và quả thật con đã gặp lại được mẹ như mẹ đã thấy đó”.

 

17. “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)

Ở đây, theo tâm lý mà nói, quả thật Ðức Giêsu đã làm một nghĩa cử vô cùng cao đẹp, khi Người hỏi người hành khất mù: “Bác-ti-mê-ô, anh muốn tôi làm gì cho anh?” – Ðúng vậy, chúng ta ai cũng muốn một lần nào đó trong đời được người khác hỏi như vậy. Một lần nào đó được tự do bày tỏ điều mình mong ước! Ðôi mắt đứa trẻ sẽ mở rộng tròn xoe một cách vui sướng rạng rỡ, khi bà dì hay ông cậu đầy thương yêu nói với nó: “Cháu có quyền xin bất cứ cái gì cháu thích, bà dì (ông cậu) sẽ cho cháu ngay!” Ðứng trước niềm vui được tự do bày tỏ nguyện vọng và chắc chắn sẽ được thoả mãn, tâm lý những người lớn chúng ta cũng không khác tâm lý của những đứa trẻ là bao!

“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Ðức Giêsu cũng hỏi mỗi người trong chúng ta như thế! Người mù đã không thể trả lời cách nào khác hơn, là: “Thưa Thầy, xin cho tôi có thể nhìn thấy được!” Anh ta biết mình bị mù. Và anh cũng biết là không còn gì đẹp đẽ và quan trọng hơn là anh ta lại có thể nhìn thấy được. Còn chúng ta, chúng ta trả lời thế nào câu hỏi của Chúa?

Có lẽ đối với chúng ta, trước hết chúng ta sẽ phải bắt đầu câu trả lời: “Thưa Thầy, xin cho con biết được là con đang bị mù!” Hay: “Thưa Thầy xin cho biết là con đang thiếu thốn những gì!” Phải chăng chúng ta không cần phải cầu xin như thế? Chúng ta không biết mình đang bị mù, đang thiếu thốn gì sao? Nhất thiết chúng ta phải cầu xin cho mình được thực sự sáng mắt? Vâng, theo thiển ý, tôi nghĩ rằng đó là điều chúng ta cần phải cầu xin cùng Chúa!

Thỉnh thoảng chúng ta cảm thấy bực mình về con cái chúng ta, vì chúng quá kén chọn, đến nỗi nhiều bậc cha mẹ đã phải than phiền: “Ngày nay người ta chẳng còn biết phải cho con cái điều gì nữa!” Cũng vậy, nhiều khi các ông bà nội / ngoại cũng đã than thở trước ngày sinh nhật của các cháu mình: “Ngày nay chúng nó đã có tất cả rồi, nên chẳng biết phải lấy gì làm quà cho chúng nó nữa!” Nhưng có phải thực sự các cháu của họ đã có tất cả rồi chăng?

“Thưa Thầy, xin cho con biết được điều con – chúng con – đang thiếu thốn!” Dĩ nhiên, chúng ta còn thiếu rất nhiều thứ: Tương lai, công ăn việc làm, sự bảo đảm an ninh khỏi trộm cắp, kiếm cho con cái một chỗ học hành gần nhà, không mắc phải những chứng bệnh nan y nguy tử, không bị tàn tật, không bị rơi vào hoàn cảnh luôn luôn phải nhờ vả kẻ khác, v.v… Vâng, đó là những nguyện vọng cần phải tỏ bày cùng Chúa. Nhưng phải chăng chúng ta chỉ thiếu thốn những điều đó thôi sao?

Chúa đã dạy chúng ta phải cầu xin cho mình có đầy đủ lương thực hằng ngày! Thiên Chúa sẽ không bao giờ xua đuổi bất cứ ai đang trong cơn túng cực và khó khăn mà biết chạy đến kêu xin Người. Trái lại Người còn muốn ban cho chúng ta nhiều hơn nữa, chứ không chỉ có lương thực hằng ngày mà thôi. Với lương thực hằng ngày, Người muốn ban cho chúng ta sự sống, sự sống của Người, sự sống thiên đàng tràn đầy hạnh phúc. Chúng ta có náo nức khao khát được tiếp cận Thiên Chúa và những gì Người hứa ban cho chúng ta không? Chúng ta có ý thức được rằng tội lỗi chúng ta đã chia lìa chúng ta khỏi Thiên Chúa và vì thế chúng ta phải xa tránh bằng sự ăn năn hối cải không? Cả trong cuộc sống của những người đạo đức cũng không thiếu những mù lòa mà chính đương sự không hề biết. Vì thế, “Thưa Thầy, xin cho con nhận biết điều con đang thực sự thiếu thốn” phải luôn luôn sống động trên môi miệng mỗi người chúng ta!

Nhiều khi chúng ta cũng hãy can đảm và thẳng thắn nhìn nhận rằng vì do sự thiếu khôn khéo và nhất là do các lầm lỗi của mình mà một số các vị có trách nhiệm trong Giáo Hội đã vô tình làm mai một đi nhiều vẻ đẹp và sức hấp dẫn của Giáo Hội cũng như của niềm tin Kitô giáo của chính mình trước con mắt người đời. Chúng ta không khỏi đau lòng khi nhận thấy những người lương dân khi nghe nói đến tiếng “Giáo Hội Công Giáo” là thường nghĩ ngay đến luật lệ cấm phá thai, cấm dùng các phương pháp ngừa thai nhân tạo, cấm đồng tình luyến ái, không cho phép những người ly dị được rước lễ, phụ nữ không được làm Linh mục,v.v…! Dĩ nhiên, đó là qui luật hiện hành của Giáo Hội, nhưng Giáo Hội không chỉ quanh quẩn có bấy nhiêu! Tất cả chúng ta đều mong muốn trở nên một Giáo Hội mà trong đó lòng thương xót của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta được rực sáng, trong đó không một ai bị cô lập, nếu như người đó nêu lên những ý kiến có tính cách phê bình và không bị loại trừ, nếu người đó không giữ vuông tròn được các luật lệ. Chúng ta hãy kính nể và biết ơn tất cả những ai đang dấn thân làm chứng nhân cho tình thương xót đó trong Giáo Hội, tức tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho con người, như bài Tin Mừng hôm nay đã loan báo, đặc biệt là những ai đang ngày đêm săn sóc và chăm nom:

những người già nua, những người bệnh tật,

những người tàn tật và những người bất hạnh, đói khổ,

những người ngoại kiều và những người sống ngoài lề xã hội,

những người bị bỏ rơi, bị tẩy chay, bị khai trừ, v.v…

Chúng ta thực sự là Giáo Hội của Ðức Kitô, nếu chúng ta biết sống trọn tình thương đó trong lòng Giáo Hội và giữa chợ đời. Vì không có dấu chỉ nào khác để cho thế gian nhận biết chúng ta thuộc Ðức Kitô hơn là sự thông cảm, tình thương và đức ái!

Dĩ nhiên, bất cứ ở đâu và trong bất thời đại nào, vẫn có những Kitô hữu sống một cách vô ý thức, thiếu hy vọng, và đầy sợ hãi khi phải đưa mắt nhìn về tương lai, hay chỉ nghĩ đến mình và chỉ sống cho mình mà thôi, v.v… Tất cả đều nói lên “mặt trái của một chiếc mề đay”, những “con chiên ghẻ” trong đoàn chiên của Chúa. Ðiều quan trọng trong một trường hợp đầy thách đố như thế, là người tông đồ của Ðức Kitô càng phải nỗ lực giữ vững đức tin và không để cho những thử thách, những khó khăn của môi trường sống chung quanh làm tê liệt lòng nhiệt thành với Ðức Kitô và tinh thần phục anh em đồng loại. Thật ra, tương lai còn bao la vĩ đại, chứ không phải chỉ đi tìm sự an ninh, sự bình an và dễ dãi cho mình. Tương lai chứa đựng nhiều thách đố nhiêu khê và người ta cần phải nêu danh chúng ra, dẫu rằng điều đó có thể gây ra những chua cay và bất bình. Nhưng chính điều đó lại có thể động viên được những nguồn sức mạnh để giải quyết tận gốc những khủng hoảng và đưa ra được liều thuốc sửa trị hiệu nghiệm.

Người Kitô hữu nên biết rằng, dù cho tương lai đen tối bao nhiêu đi nữa, Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trong mỗi tương lai! Người là Thiên Chúa của lịch sử và là Thiên Chúa của thế kỷ hiện tại cũng như của những thế kỷ sắp tới! Niềm hy vọng Kitô giáo giúp tôi có thêm nghị lực để bước đi những bước mới theo khả năng tôi cho phép, với sự ý thức chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ chiếu giọi ánh sáng của Người trên việc làm bé nhỏ của tôi, trên cuộc sống cụ thể hằng ngày của tôi.

Chúng ta không chỉ nài xin Chúa giúp chúng ta đạt được những mục đích quan trọng mà chúng ta cần phải hiện thực, nhưng cả đến khả năng để bước đi những bước cụ thể, nhỏ mọn và đơn sơ, mà tôi – chúng ta – có thể thực hiện được trong gia đình, trong Giáo xứ và làng mạc của chúng ta hay ở bất cứ nơi đâu. Và qua đó, thế giới sẽ trở nên tươi sáng hơn. Ðó chínnh là sứ mệnh của tất cả chúng ta!

“Lạy Chúa, xin ban cho con sự can đảm trong những bước mà con sắp sửa đi! Và xin cho con cảm nhận được rằng Chúa hằng đồng hành với con trên mọi nẻo đường con đi!”

Ðó là điều cần phải nài xin Chúa ban cho chúng ta. Bởi vì, có những giờ phút trong cuộc sống, Chúa để xảy đến cho chúng ta trở nên vô cảm và nguội lạnh, không còn cảm nghiệm được bất cứ điều gì nữa. Ðó là những giờ phút chúng ta hoàn toàn trở nên trống rỗng và khô cạn, như thể bị căng ra trên thập giá như Chúa xưa kia ở đồi Golgotha vậy! Tuy nhiên, chúng ta có thể và cần phải tha thiết câu xin:

“Lạy Chúa, xin che chở con, xin che chở cộng đoàn Dân Chúa. Xin cho chúng con cảm nhận được sự gần gũi của Chúa bên chúng con!”

Nói tóm lại, Chúa đã hỏi người mù Bác-ti-mê-ô – Người cũng hỏi bạn và tôi nữa -: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Chúng ta hãy trả lời Người với tất cả sự cảm xúc đầy mong mỏi đợi chờ mà mỗi người chúng ta hằng ấp ủ:

Lạy Chúa, xin cho con biết con đang bị mù!

Xin cho con nhìn thấy được điều con đang thiếu thốn, điều con thực sự đang thiếu thốn!

Xin ban cho sự can đảm trong những bước đường sắp tới, chứ đừng để con chỉ ngồi chờ đợi kẻ khác!

Và xin cho con cảm nhận được rằng Chúa luôn ở bên con!

Hy vọng rằng chúng ta cũng sẽ được lãnh nhận tình thương của Chúa, như người mù Bác-ti-mê-ô: Ðức Giêsu đã sờ đến anh. Anh lại có thể nhìn thấy và anh đã theo Ðức Giêsu trên đường Người đang đi.

 

18. Can đảm – Lm. Vũ Đình Tường

“Can đảm lên!”

Đức Kitô đáp lại tiếng kêu chữa lành anh mù thành Bartimaeus, và đám đông dân chúng thúc dục anh can đảm lên, đừng sợ, Đức Kitô gọi anh đó. Can đảm thay cuộc đời, đổi lối sống, làm lại từ đầu. Can đảm dứt bỏ quá khứ hướng về tương lai tràn đầy hy vọng, tình yêu Chúa.

Đổi đời

Trước khi Đức Kitô đáp lại tiếng anh kêu cứu, người ta đã ngăn cản anh đến với Đức Kitô, người ta cấm không cho anh lên tiếng. Anh càng kêu to hơn và Đức Kitô đáp lại tiếng anh nài van. Lời nói của Đức Kitô có sức mạnh thay đổi tâm can con người. Lời Chúa thay đổi tâm can anh mù, thay đổi tâm can đám đông. Lời Chúa có sức mạnh chấm dứt đau khổ anh mù đang gánh chịu. Sức mạnh Lời Chúa mở mắt anh mù, chấm dứt chuỗi ngày tăm tối. Anh mù mắt sáng bước đi trong ánh sáng bình minh, anh không còn phải ngồi vệ đường xin ăn. Anh tự làm nuôi sống mình. Anh bước đi trong sự thật, trong ánh sáng Lời Chúa và trở thành môn đệ Đức Kitô, bước đi theo Ngài. Mọi nơi anh đều thuật lại việc lạ lùng Đức Kitô làm cho anh. Trước đây anh không có bạn bè, chỉ có những người thương hại cho anh cơm bánh. Trở thành môn đệ Đức Kitô anh có nhiều bạn bè, tông đồ Chúa, đám đông theo Ngài và những ai tin vào Ngài. Anh trở thành phần tử trong công đoàn đức tin Kitô.

Tương lai bừng sáng

Từ giã cuộc sống tối tăm, không còn ăn vận rách rưới như xưa, thay áo mới nhìn anh sáng sủa, mặt tươi vui, hớn hở. Đầu tóc chải tươm tất, anh đi đứng khoan thai, đầu cao, mắt sáng, hãnh diệnt rở thành môn đệ Đức Kitô. Đời anh thay đổi hoàn toàn, anh biết thưởng thức vẻ đẹp của nắng sớm, mắt tròn xoe nhìn nắng chiều và ca tụng vẻ đẹp thiên nhiên mà trước đây anh không hề được thưởng thức. Tương lai anh sáng vực với hy vọng tràn trề bởi từ nay anh có Đức Kitô chỉ đạo, dẫn đường và ban cho anh sự sống mới. Gặp gỡ Đức Kitô anh từ người vô danh trở thành lừng danh bởi bất cứ nơi nào Tin Mừng được rao giảng chuyện riêng đời anh trở thành chứng nhân tình yêu và lòng thương xót vô biên Chúa dành cho anh.

Nhìn bằng mắt đức tin

Anh mù là mẫu mực người lắng nghe sinh động. Anh chưa hề nhìn thấy Đức Kitô nhưng anh nghe nói về Ngài và nhớ những điều anh nghe được. Dù không nhìn thấy Đức Kitô nhưng anh biết Ngài sanh trưởng nơi Nazareth, con vua Đavít và Ngài có sức mạnh thần thiêng trên các bệnh tật. Anh nghe biết Ngài sắp đi qua nơi anh đang xin ăn và lên tiếng kêu cầu. Lời cầu của anh rất đơn sơ. Lậy Ngài, xin cho con mắt được sáng. Đơn giản trong lời cầu, mạch lạc, rõ ràng xin điều anh mong mỏi, ước ao.

Người mù mở mắt chúng ta học biết con mắt đức tin nhìn thấy Chúa trước con mắt xác thịt. Anh mù nhận ra Đức Kitô và tin vào Ngài trước khi Ngài mở mắt anh. Anh dùng mắt xác thịt chiêm ngắm vẻ đẹp kì công sáng tạo của Chúa. Kì quan trần thế củng cố đức tin nơi anh. Chúng không ban cho anh niềm tin nhưng làm cho niềm tin của anh vững mạnh hơn. Đức tin anh có trước khi nhìn thấy kì công của tạo hoá. Đức Kitô đã nói với anh. Đức tin anh đã mở mắt anh và điều anh xin cho mắt sáng được toại nguyện bởi anh có lòng tin vào Ngaì. Anh nhận biết Đức Kitô nhờ con mắt đức tin và con tin yêu mến nồng nàn trước khi nhìn thấy bằng con mắt xác thịt.

 

19. Mù sương – Lm. Vũ Đình Tường

Con đường tin theo Đức Kitô không phải lúc nào cũng bằng phẳng, thẳng tắp, thênh thang. Thực ra con đường theo Chúa có lúc nọ, lúc kia, khi thẳng, khi cong. Đức Kitô xác nhận con đường Ngài chọn đi là con đường có cửa hẹp. Đường dẫn vào cửa hẹp dẫn đến sự sống. Mt. 7,13.

Dù đường đời hay đường theo Chúa. Con đường nào cũng có lúc quanh co, khi uốn khúc. Có đoạn chênh vênh sườn núi. Có đoạn gập gềnh khúc khuỷnh ẩn sau cánh rừng. Lại cũng có đoạn vắt ngang cánh đồng xanh, bao la, bát ngát, đây đó có chim kêu, kia nọ có bướm lượn. Dù thung lũng sâu hay trên đỉnh non cao, đường có lúc trong sáng, gió nhẹ bay. Khi khác lại mù sương, gió buốt, thốc từng cơn. Khi trong sáng trước mắt hứa hẹn một tương lai rực rỡ, khi mây đen bao phủ, tương lai mù mờ.

Song song với đường đời, người Kitô hữu còn có đường thiêng liêng dành riêng cho những ai nối gót Đức Kitô. Tự nguyện bước trên đường này sẽ nhận được ơn riêng Chúa ban. Ngài ban ơn hỗ trợ, nâng đỡ, khuyến khích, mời gọi Kitô hữu cùng nâng đỡ, dìu nhau tiến bước. Nếu có ai không may trượt chân, mệt mỏi, vấp ngã hãy đỡ nâng, giúp họ tiếp tục tiến bước.

Đường thiêng liêng

Chúa không tạo dựng đường riêng cho từng Kitô hữu. Ngài mời gọi Kitô hữu nhập thế, đi chung đường đời. Đã làm người ai cũng trải qua đường đời. Kitô hữu nhập thế để trở thành muối, thành men ướp đời. Nói cách khác, Kitô hữu vừa chung đường đời vừa có nhiệm vụ làm người chỉ đường, linh đạo cho nhân thế.

Cần biết rõ con đường mới có thể chỉ đường rõ ràng, mạch lạc. Không rõ con đường sẽ chỉ mông lung, lơ mơ. Cả hai đều lạc. Đường tâm linh soi sáng, hướng dẫn đường đời mà không thể ngược lại. Chúa soi sáng, dẫn đường tâm linh. Đây là đường vĩnh cửu, luôn đúng. Trào lưu xã hội chỉ đạo đường đời. Trào lưu thường có thời. Hết thời trào lưu chết, đường theo trào lưu cũng chết theo.

Vững tin, hèn tin

Chọn đường đời hay đường tâm linh đều không tránh khỏi lo âu, phiền muộn. Mạnh tin, coi lo âu, phiền muộn là cơ hội dẫn đến gần Chúa hơn. Gian truân, thử thách giúp cảm nghiệm rõ tình yêu Chúa. Cảm nghiệm Chúa luôn hiện diện, gần gũi, chia sẻ mọi biến cố trong đời.

Một khi Kitô hữu cảm nhận rõ ràng tình yêu Chúa dẫn dắt trên đường khi nguy khó người đó trở nên quyết tâm, bám chặt vào Chúa, vững tâm, không sờn lòng trước chông gai, bão tố. Đời lắm gian truân, đức tin và lòng thành càng lộ tỏ vững chắc. Tin theo mà không tính toán hơn thiệt.

Trái lại kém lòng tin thường coi lo âu, phiền muộn là chướng ngại. Thiếu phó thác vào Chúa. Cậy sức riêng giải quyết thử thách, nguy nan. Tin mà thiếu phó thác. Tâm tình lạnh nhạt, hay nản lòng. Tin giai đoạn, lúc tin, lúc không. Tìm cách trốn chạy đau thương, phiền muộn. Vừa chạy vừa than, trách. Cuống lên, chạy quanh. Chạy quanh chẳng tới đích. Hoạ may gặp đường cùng. Đường cùng không lối thoát nên bất mãn. Vì bất mãn nên coi thường, thờ ơ cầu nguyện. Tất cả đều do yếu kém đức tin gây ra.

Đức tin không trưởng thành so với tuổi đời. Đức tin không lớn so với thời gian tin theo. Đức tin trưởng thành nhờ sống bác ái, yêu thương, sống đời thánh thiện.

Chỉ đạo

Vì có đường nên cần có người chỉ đường, hướng dẫn cách đi, lối đi. Đức Kitô tự nhận Ngài là con đường.

Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Ga 14,6

Chọn con đường Chúa đi, chọn Ngài làm Đấng chỉ đạo bảo đảm chọn đúng đường. Chúa vừa là con đường cho con tiến đi vừa là Đấng chỉ đạo cho con tiến bước. Con đường Ngài chỉ đạo là sự thật. Trong sự thật luôn chứa mầm sống, sự sống. Đường Chúa hướng dẫn là chân lí, sự thật, mang lại sự sống vĩnh cửu.

Mù sương

Niềm tin tôn giáo không thể chết, nhưng có thể lu mờ, sống tình trạng mù sương. Tâm hồn mù sương đáng thương hơn đáng trách vì luôn sống trong tình trạng ngờ vực, lo âu, sợ sệt. Sợ niềm tin Kitô không bảo đảm được hạnh phúc nên nhờ vật chất bảo vệ. Mù sương thường nhập nhằng giữa linh đạo và đường đời. Để quyền lợi, danh vọng, đường đời hướng dẫn, chỉ đạo tâm linh.

Kẻ khai sinh câu ‘tốt đời, đẹp đạo’ tạo hoả mù cho tôn giáo. Hoả mù vì mỗi chính quyền định nghĩa đời một kiểu. Cần phải xác định loại đời nào. Không phải hễ tốt đời là đẹp đạo cả đâu. Kẻ phản đạo vẫn có thể làm tốt đời. Trái lại, tâm hồn thánh thiện không bao giờ làm hại đời. Nếu hại sao có thể gọi là thiện tâm, là lành thánh. Câu nói chính xác là tốt đạo sẽ đẹp đời. Ngược lại đẹp đời chưa chắc tốt đạo.

Tốt đời, đẹp đạo là sai. Câu này không đúng. Nét đẹp của đạo thể hiện một cách trọn vẹn, trong sáng khi tôn giáo có tự do thực sự. Tôn giáo phục vụ, làm tốt hơn đời sống con người. Tôn giáo sống gò bó trong khuôn khổ của đời. Tôn giáo đạt mục đích làm đẹp. Lạm dụng nét đẹp tôn giáo để khoe với đời, với người. Tôn giáo ích chi cho con người.

Một tâm hồn công chính, thánh thiện là nhờ sống niềm tin. Lạm dụng niềm tin chỉ có thể xảy ra cho kẻ thiếu đức tin và kẻ không niềm tin.

 

20. Vỉa hè – Lm. Vũ Đình Tường

Vỉa hè là nơi mà người có con mắt thương mại buôn bán, kiếm sống; kẻ tàn tật, người mù loà, kiếm ăn hàng ngày. Người mù không nhìn thấy ông đi qua, bà đi lại nhưng nhận biết người đang tiến tới. Người mù không thể nhìn bằng mắt thường nhưng bằng cảm quan để nhận biết những gì xảy ra quanh mình. Người mù không nhìn thấy người cho đồng bạc nhưng biết hành động bác ái của người cho qua việc nghe đồng tiền rơi trong giỏ cói. Người mù qua cảm quan nhận biết sự hiện diện của người đang đứng gần kề. Người mù cảm nhận sự việc đang diễn ra quanh mình. Người mù biết sắp đến là một người hay một nhóm. Người mù cảm nhận khí trời hôm nay nắng đẹp hay mưa phùn hay bầu trời mù mây. Dù không trông thấy nhưng cảm nhận trong trí của anh ta.

Mong muốn có được cái này, cái nọ là ước mong chung của đa số. Khi có được điều ước mong lại không thích, không ưa, không hài lòng, lại muốn có cái khác vì thế mỗi chúng ta đều có những ước mong viển vông, hoặc ngay cả không biết chắc mình muốn gì, thích gì. Trong khi anh mù Batêmô dù không nhìn thấy nhưng lại nhìn rõ trong đầu điều anh ước ao, mong muốn. Anh mong tấm lòng bác ái, cử chỉ từ thiện từ người qua đường. Trong khi đó anh mong được Đức Kitô ban cho mắt sáng. Khi chưa gặp Ngài anh kêu nài

‘Lậy Đức Kitô, con vua Đavít, xin thương xót con’

Khi gặp Ngài điều xót thương thổ lộ rõ hơn. Anh xin cho được mắt sáng. Điều anh xin hoàn toàn trái ngược với hai người sáng mắt tuần trước nhắc đến của hai tông đồ. Họ sáng mắt thân xác nhưng lại mù mờ mắt tâm linh. Vì thế Đức Kitô nói với hai ông: Các con không biết điều các con xin (Mc 10,38).

Nhìn thấy mới tin là điều nhiều người mong ước nhưng không có chi bảo đảm điều bạn nhìn thấy là sự thật hay bảo đảm bạn nhìn chính xác, rõ ràng. Nếu nhìn luôn chính xác làm gì có chuyện chọn sai, mua lầm. Nếu nhìn thấy luôn chính xác thì làm gì có chuyện hối hận đã đi sai đường, lạc lối, đã phản tỉnh về nhận thức sai lầm.

Đám đông đi theo Đức Kitô lên tiếng can ngăn anh mù, không cho anh lên tiếng. Càng can ngăn, anh càng kêu to hơn. Đức Kitô dừng lại nói với đám đông để anh ta đến cùng Ngài. Tiếng của Ngài có lẽ nhỏ nhẹ, êm đềm, mời gọi. Dù là tiếng nhỏ nhẹ đó pha trộn với tiếng đám đông ồn ào, huyên náo thế mà anh mù vẫn nghe được tiếng Ngài. Không chần chừ nhưng nhanh chóng đáp lại tiếng Ngài gọi. Anh vui mừng nhảy nhón, chạy đến cùng Đức Kitô. Không phải vì anh nài nỉ dai dẳng mà Đức Kitô chữa anh mà chính là đức tin biểu lộ qua hành động. Điều này chính Đức Kitô xác nhận trước đám đông. Hành động thể hiện đức tin thầm kín trong lòng của anh biểu lộ qua hành động vui mừng nhảy múa, chạy nhanh đến và cuối cùng là đi theo Đức Kitô.

Đức Kitô sau khi cho anh mắt sáng bảo anh.

Anh hãy đi, đức tin của anh đã cứu anh.

Thay vì ra đi, anh chọn ở lại, chọn đi theo. Anh vất lại sau lưng tất cả để theo Chúa. Anh vất lại đồng tiền xin được trong ngày. Anh vất lại chỗ tốt mà anh ngồi xin bao năm qua mà nhiều người mù khác mong có được chỗ kiếm ăn tốt đó. Anh vứt lại cái khung cảnh quen thuộc và những người giầu bác ái luôn mở rộng tay phát cho anh miếng cơm. Anh vứt lại cái áo choàng duy nhất vật giữ ấm trong ngày giá lạnh. Anh vất lại lối sống cũ để mặc vào người lối sống mới, lối sống không nhà cửa, không chốn dựa đầu nhưng lại thảnh thơi, tâm tư thư thái, lòng an bình. Anh vứt lại í riêng để đón nhận ý Chúa soi đường, chỉ lối đời anh.

Người ta khoe mẽ đi nhiều biết rộng đúng câu ca dao, tục ngữ: Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Người mù này không đi đâu xa, nếu có cũng chẳng nhìn thấy gì thế mà anh học được sàng khôn. Anh học được sự sống đời đời. Anh học được đức tin để tin vào Đức Kitô và chính niềm tin đó giúp anh sáng mắt. Vì thế đức tin không đến từ bên ngoài mà đến từ bên trong, từ con tim chân thành yêu mến. Con tim biết lắng nghe Lời Chúa và biết đêm ngày giữ trong lòng Lời Ngài. Sàng khôn nằm trong con tim, không phải nơi phong cảnh của đất trời bao la.

 

21. Niềm tin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tiên tri Giêrêmia loan báo tin vui ngày trở về quê hương xứ sở. Ai đi đâu xa, cũng mong có ngày trở về. Nhất là những người bị đi lưu đầy, tù tội hay xa xứ đều mong có ngày được trở về quê hương. Sự trở về mang lại niềm vui lớn. Cuộc sống là một cuộc nối kết những chặng đường trở về. Chúng ta cùng đang lữ hành trên trần gian đầy chông gai thử thách. Mọi cuộc lữ hành cần có cùng đích để hướng tới. Mỗi người được sinh ra đời đều có cội có nguồn, có cha có mẹ, có quê hương xứ sở và có cùng đích để trở về. Cuộc sống vô thường và thay đổi, đổi thay mỗi ngày. Cũng như thời gian đắp đổi, có hợp có tan, có vui có buồn, có đi có về, có xuất có nhập, có sáng có tối và có sinh có tử. Không có ra đi thì cũng không có trở về. Sinh ký tử qui. Cuộc sống con người kết nối bởi những biến cố nhỏ to. Đời sống thiên nhiên cũng thế, vòng xoay bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và hai mùa mưa nắng.

Dân Do-thái nhiều năm bị lưu đầy xa xứ sắp được trở về quê hương. Trong niềm vui mừng hân hoan, tiên tri Giêrêmia đã xướng lên: Vì Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân!(Gier 31, 7). Niềm vui ngày trở về là ngày vui của sự xum họp trong tự do và hạnh phúc. Người Do-thái được giải thoát khỏi làm nô lệ tôi đòi cho ngoại bang. Niềm mơ ước được giải phóng trở về quê hương là một niềm mong ước vượt qúa sức của họ. Thiên Chúa đã yêu thương an bài để mọi người cùng được trở về sống chung, không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ tàn tật và người bất hạnh: Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo (Gier 31, 8).

Thánh Phaolô mời gọi mọi người hãy sống đúng với tư cách của mình là Kitô hữu, ngài nhắn nhủ rẳng: Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham lam, thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh, như thế mới xứng đáng là những người trong dân thánh (Eph 5, 3). Sự xấu có mặt trong đời sống của con người mọi thời, xưa cũng như nay. Những bản năng thú tính kéo lôi con người trở về với cách sống hoang dã. Con người dễ rơi vào những dịp tội của sự ghen tương, thù ghét, oán hờn và gian tham. Sống buông thả theo bản năng thì rất dễ dàng như bèo trôi theo dòng nước. Đi vào con đường hẹp để tu tâm luyện tính đòi hỏi sự ý thức và luyện tập chuyên cần. Tu tâm là xa tránh dịp tội, cải thiện đời sống, giảm bớt tham sân si và tập tành các nhân đức. Muốn nên người tốt, chúng ta phải chuyên tâm tu luyện và thực hành điều thiện trong ý tưởng, lời nói và hành động.

Chúng ta đang sống trong thời đại ‘bấm nút’. Mọi phương tiện khoa học kỹ thuật xử dụng nút bấm và sờ chạm rất thuận lợi, dễ dàng và nhanh chóng. Chúng ta mất dần sự kiên nhẫn và sự kiên trì phấn đấu. Cái gì cũng muốn có kết qủa ngay lập tức như ơn chữa lành các bệnh tật. Vì thế, có sự xuất hiện giữa chúng ta những đáp ứng “mì ăn liền” trong cả niềm tin trong đời sống đạo. Khi xưa thánh Phaolô đã cảnh báo các tín hữu: Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em, chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống những kẻ không vâng phục (Eph 5, 6). Chúng ta đừng dễ cả tin những cách thế trà trộn lẫn lộn thực hư để đưa dẫn chúng ta vào những sự hão huyền. Chúng ta đừng mắc mưu chạy theo các thần tượng và nghĩ rằng họ có thể đáp ứng mọi nhu cầu tâm linh khao khát của chúng ta.

Bài Phúc Âm, kể câu truyện Chúa Giêsu chữa cho anh mù thành Giêricô. Anh bị mù cả hai mắt và phải đi ăn xin. Anh nghe nói về Đức Giêsu Nazarét, anh đã nhận ra Chúa qua con mắt đức tin: Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! “(Mc 10, 47). Có lẽ nhiều lần anh đã lảng vảng nơi đám đông tụ họp để ăn xin và nghe ngóng. Anh đã nghe và nhận diện ra Đấng có đầy lòng thương xót. Anh biết Đấng đó có uy quyền chữa trị bệnh cho anh. Anh bị mù chứ không phải quáng gà hay loạn thị. Các bác sĩ không thể chữa trị những chứng bệnh như mù, điếc, câm và què từ bẩm sinh. Anh đã chạy đến xin Chúa chữa. Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh? ” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” (Mc 10, 51). Chúa đã chữa lành cho anh ta.

Chúa chữa lành cho anh mù và tức khắc anh nhìn thấy. Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh! ” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi (Mc 10, 52). Ngày nay xuất hiện nhiều thầy lang chữa bệnh nhưng chỉ chữa những bệnh cảm cúm, đau nhức và phong thấp thường ngày. Thời tiết đổi thay, nay khỏe mai yếu. Hằng ngày người bệnh dùng cả thuốc bắc, thuốc nam, thuốc tây và thuốc bổ đủ loại, hiệu qủa sớm muộn tùy duyên. Thật khó bề mà lường được nguyên nhân và hậu qủa của các hiện tượng chữa lành xảy ra. Như lời thánh Phaolô phát biểu: Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em. Thời nay có rất nhiều người cả tin, dễ tin và mê tín dị đoan. Những cảm giác, ảo tưởng, tâm sinh lý, ước muốn và môi trường chung quanh cuốn hút chúng ta vào những mê hoặc và giả tưởng. Chúng ta cần thức tỉnh tâm linh và trải nghiệm những diễn tiến thật sự trong thân xác mình. Chúa Giêsu nói với anh mù: Lòng tin của anh đã cứu anh. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cần một niềm tin tuyệt đối vào danh Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Là Kitô hữu, chúng ta tin vào quyền năng của Chúa Giêsu Kitô. Niềm tin cần được hun đúc, trau dồi học hỏi và thực hành trong đời sống. Tin là sự phó thác hoàn toàn vào việc Chúa quan phòng. Chúng ta bắt đầu Năm Đức Tin (the Year of Faith), Đức giáo hoàng Bênêđictô thứ 16 mời gọi các tín hữu hãy ý thức và sống niềm tin của mình cách chân thành. Chúng ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin Kính. Tin vào những mầu nhiệm được mạc khải trong đạo. Tin vào những điều Giáo Hội truyền dạy về sự sống đời này và đời sau. Củng cố niềm tin của mình bằng cách học hỏi lời Chúa, suy gẫm gương của các thánh nhân và thực hành sống đạo. Đức tin cần thấm nhập vào tâm trí, ý chí, ý thức và tuyên xưng qua lời nói và việc làm. Thánh Giacôbê nói về đức tin: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17).

Chúng ta đang trở về với cội nguồn của niềm tin. Cùng với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin của Công Đồng Nicêa năm 325 (The Nicene Creed). Niềm tin mà chúng ta đã tuyên hứa trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Cậy dựa vào gương sáng của các vị tiền bối đã dám sống chết vì niềm tin vào Đức Kitô. Chúng ta cũng phải củng cố và hun đúc niềm tin sống đạo mỗi ngày. Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia! ” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được (Mt 17, 20). Đức tin là nhân đức đối thần. Trong cuộc sống đạo, chúng ta còn yếu đức tin và nhiều ngờ vực. Trau dồi qua tri thức chưa đủ mà cần kết hợp với Chúa Kitô trong nguyện cầu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” (Lc 17, 5).

Lạy Chúa, đức tin của chúng con rất hời hợt và nông cạn, xin thêm lòng tin cho chúng con. Đã nhiều lần chúng con mê hoặc chạy theo những lời mời gọi mơ hồ, giả trá, ảo tưởng và mê tín. Chúng con đã đặt niềm tin vào con người và phương tiện khoa học kỹ thuật trần gian hơn là đặt niềm tin nơi Chúa Kitô. Giờ đây, chúng con xin phó thác trọn vẹn cuộc đời trong tay Chúa, xin Chúa nâng đỡ phù trì.

 

22. Ôi lạy Chúa, xin mở cho con đôi mắt

(Suy niệm của Huệ Minh)

Vài ngày trước đây, thức giấc là mắt trái mở không lên vì ướt và ghèn! Khó chịu vô cùng và hỏi thăm bác sĩ quen về mắt để bác sĩ cho thuốc nhỏ đỡ vì chưa có dịp về thành phố. Có công có việc gì mới đi để kèm theo chứ chẳng lẽ con mắt đau một tí là chạy về. Chạy đi chạy về vừa mệt vừa tốn tiền xe nữa.

Con mắt có vẻ thốn và khó chịu vô cùng. Có lẽ, cảm nghiệm này không phải của riêng người bệnh này nhưng là cảm nghiệm của những ai đã hơn một lần đau mắt.

Đau mắt thôi đã thấy khó chịu như vậy mà nếu như khi ta khiếm thị, ta không nhìn thấy đường, không nhìn thấy vật thể trước mặt ta nữa thì khó chịu biết bao.

Mẹ cho đôi mắt sáng ngời, để nhìn đời và để làm duyên

Trời cho em con mắt màu đen để thương để nhớ để ghen để hờn

Đôi mắt em là cửa sổ tâm hồn,

là bài ca hay nhất, là tuyệt tác của thiên thu.

Con mắt chính là cửa sổ tâm hồn, là cửa sổ để thu tất cả những hình ảnh, những cảnh vật vào tâm hồn con người. Và vì thế, con mắt phải nói đóng vai trò rất quan trọng trong cơ thể của con người. Con mắt đui mù quả là khiếm khuyết lớn cũng như làm cho con người bị giới hạn và thiệt thòi nhiều.

Ngày hôm nay, ta bắt gặp hình ảnh anh chàng mù thành Giêricô con ông Timê tên là Bartimê. Anh ta mù nhưng may mắn là anh còn nghe được. Vì mù, chẳng biết làm gì và cũng chẳng làm gì nên chỉ còn cách duy nhất là ăn xin. Đang ngồi ăn xin nhưng anh nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”.

Thấy anh kêu như vậy và vì anh là người khuyết tật nên người ta ăn hiếp anh và ta bắt gặp nhiều người mắng anh bảo im đi. Trước thái độ của những người sáng mắt ngăn cản, anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi”.

Hẳn nhiên là lời kêu của anh đã đến tai Chúa Giêsu, không chỉ tai mà còn đập vào mắt Chúa Giêsu hình ảnh của một con người khuyết tật để rồi Chúa Giêsu không đi nữa mà đã dừng lại và truyền mọi người gọi anh đến. Đơn giản, Chúa Giêsu nói với anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Nghe Chúa Giêsu nói và anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu.

Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Được, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.

Quá tuyệt vời! Anh mù đã thấy và đã đi theo Ngài.

Dừng lại một chút vì ta choáng. Ta phải đưa ta trở về với thực tại Tin Mừng ngày hôm đó ta mới cảm nhận được sức mạnh của Lời Chúa, của phép lạ mà Chúa Giêsu làm.

Quá sức tưởng tượng với niềm tin của anh chàng Bartimê.

Và, ta cũng có dịp nhìn lại niềm tin của ta.

Niềm tin của ta dường như nó sao sao í! Và nhất là khi ta đủ hai con mắt sáng và rất sáng nữa. Giản đơn là Chúa ban cho ta đôi mắt sáng đó nhưng ta có cảm nhận được đó là quà tặng, là ơn của Chúa đâu. Nếu có thì ta đã cảm nhận và cảm tạ chứ đâu có ai oán là sao Chúa để cho con thế này thế kia? Chúa cho sáng mắt, đó phải chăng là một hồng ân, một quà tặng quá lớn của Chúa không?

Sáng con mắt nhưng mù tâm hồn. Chính vì mù tâm hồn nên đâu có nhìn thấy được ơn Chúa.

Bài hát mà Cha Bạch Văn Lộc khi còn sống rất thích hát và mời mọi người cùng hát. Khi đó, còn bé, nghe thì nghe, hát thì hát đó nhưng cũng chưa hiểu tâm tình của Cha cố Henry:

Lạy Chúa, xin mở mắt con

Biết nhìn kỳ công của Ngài

Trời xanh, tinh tú long lanh

Hoa ngàn cùng muôn muông thú

Ðồi kia ai đắp nên non

Sông dài, trùng dương mênh mông

Biết rằng Ngài đã thương con

Thế mà con đâu có hay!

EPHATA Hãy mở! Mở ra!

EPHATA Hãy mở ra!

EPHATA, EPHATA

Ta phải xin Chúa mở con mắt ta để ta thấy kỳ công của Chúa, kỳ diệu của Chúa ít là ngay bên đời ta thôi.

Thử nhìn lại đi, cách đây 10 năm, 20 năm, 30 năm… cuộc sống của ta như thế nào? Ngày nay ta có nhiều lắm đó chứ! Nhìn lên ta không bằng ai nhưng khi nhìn xuống ta lại chợt thấy có nhiều người không may mắn như mình.

Ở gần Mẹ, mỗi tuần lại được nhìn thấy những lời khấn, những lời xin của con cái Mẹ từ khắp nơi về lại thấy có điều gì đó man mác buồn.

Mẹ ơi! Xin Mẹ cho con được ơn, được tiền để trả nợ Mẹ ơi! Chồng của con vướng vào ma túy, xin Mẹ cho anh ơn hoán cải. Mẹ ơi! Con của con mê chơi game, xin Mẹ cho con của con đừng mê game nữa.

Mẹ ơi! Mẹ ơi…

Nhìn lại mình, dĩ nhiên vẫn còn đó những chứng bệnh như rối loạn tiền đình, như viêm tai… nhưng, vẫn may mắn là còn tiền và có tiền để đi khám và chữa bệnh. Cũng như may mắn hơn nữa là có người này người kia là nhân viên ở các bệnh viện thấy khờ khờ từ quê lên tỉnh nên chỉ vẽ, hướng dẫn cho để khỏi bị la. Vào bệnh viện, dễ bị người này người kia ăn hiếp vì khờ khạo lắm vì nhà quê lên tỉnh.

Nhìn lại thì thấy sao Chúa thương mình và không xin cho mình hết bệnh mà xin cho mình đủ sức để gánh bệnh và gánh bệnh cho biết với người ta.

Nói đến đây lại nhớ có vài lần vào bệnh viện, người quen dù biết mình bận rộn, dù cũng thương và lo cho mình đó nhưng lại bảo là cứ chờ để cho biết người người nghèo!

Hay! Đúng! Có khi phải chờ, phải đợi như thế mới có cái cảm của người nghèo chứ không thì không có cơ hội để cảm cái khó khăn của người nghèo khi vào bệnh viện.

Và cũng vui là có lần vào viện, tưởng là được khám ngay nhưng không, bị vịn lại vì huyết áp cao quá. Nhân viên bảo là nhiều khi được thương chưa hẳn là tốt, mấy em nó đưa đi vội vội và lên cầu thang nên huyết áp cao mà cái huyết áp này là huyết áp giả nên rất khó để khám bệnh.

Thế đó, phải chờ, phải đợi để có cái cảm với người nghèo, người khác.

Đời ta, ta may mắn, ta hạnh phúc hơn nhiều người nhưng đôi mắt của ta vẫn không thấy, vẫn chưa thấy. Ngày nào mang nỗi đau tôi mới hổi nỗi đau là gì, ngày nào trong khát khô tôi mới hiểu phận người ăn xin, chỉ cần một ly nước thôi, chỉ cần bát cơm vơi…

Ta còn may mắn, ta con hạnh phúc hơn nhiều người nhưng con mắt đức tin của ta khép lại, mù quáng vì ta chạy theo vất, của thế gian và phù hoa. Khi ta để cho tiền của, quyền lực, danh vọng lâp đầy lòng ta, lấp đầy mắt ta thì khi đó ta không còn thấy Chúa nữa. Và khi đó, ta lại thủ thỉ, thỏ thẻ với Chúa:

Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt,

Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi.

Con mù lòa, bên vệ đường hành khất,

Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài.

 

23. Chúa Nhật 30 Thường Niên

“Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh” (Mc 10,52)

Câu chuyện người mù Bactimê được sáng mắt cho thấy sức mạnh của niềm tin nó sẽ cứu chữa chúng ta khỏi đau khổ và bất hạnh. Chúa Giêsu đến để kêu gọi mọi người hãy tin vào Ngài, chính Ngài sẽ giải thoát, cũng như chính Ngài khơi gợi niềm tin trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai tin vào Ngài thì được cứu khỏi tội lỗi và được hạnh phúc.

Trong Tin Mừng có rất nhiều câu chuyện diễn tả về sức mạnh của niềm tin như câu chuyện đầy tớ của một đại đội trưởng Rôma (Mt 8, 5-13) với việc Chúa Giêsu chỉ phán một lời là được cứu sống và người đàn bà bị băng huyết mười hai năm khi chỉ nghĩ rằng đụng vào tua áo của Chúa Giêsu là được khỏi (Mt 9, 20-22), thật sự bà được chữa khỏi mà không cần một hành động hay lời nào của Chúa Giêsu hay người con gái của bà góa ngoại giáo xứ Canana (Mt 15,21-28), khi Chúa Giêsu thử thách bà bằng cách làm ngơ trước sự van xin tha thiết nhưng cuối cùng con gái bà cũng được chữa khỏi…còn rất nhiều câu chuyện khác trong Tin Mừng nói lên sức mạnh của niềm tin.

Ở đây, anh mù Bactinô được sáng mắt do sự kêu cứu quyết liệt và kiên nhẫn của anh ta. Anh không thấy nhưng anh nghe được, anh nghe người khác bàn tán về một ông Giêsu nào đó có khả năng làm nhiều chuyện lạ, có thể nói anh kêu cứu Chúa Giêsu một cách cầu may. Cái mù đã làm anh đau khổ một thời gian dài và hiện tại dù có nhiều người quát mắng, cản trở mình nên anh gào lên thống thiết và mãnh liệt hơn khi nghe tin Chúa Giêsu đã gần đến mình vì bây giờ là cơ hội anh được giải thoát. Chúa Giêsu đã đoái đến và cứu chữa anh.

Nơi Chúa Giêsu, khi thực hiện một việc cứu chữa, Ngài có nhiều cách để thực hiện, bằng lời nói, hành động hay ngay cả một sự thách thức để thử thách. Đó là quyền của Ngài nhưng Ngài luôn biết nhu cầu, ước muốn và suy nghĩ của con người. Ngài đến là để cứu chữa khỏi mọi bệnh tật, tội lỗi của con người, điều còn lại là nơi mỗi người chúng ta có muốn, kiên nhẫn và tin vững vàng vào quyền năng và tình thương của Chúa hay không?

Chúa Giêsu không cho thấy Ngài đã làm gì để cứu chữa anh mù này, Ngài chỉ kêu gọi hãy để anh đến gần mình và người khác đừng cản trở anh chỉ với một câu xác nhận đơn giản “lòng tin của anh đã cứu anh”, anh mù Bactimê được sáng mắt, một cuộc sống mới đầy ánh sáng đã đến với anh.

Chúa luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của con người, nơi vũ trụ vạn vật này và sâu xa hơn là Ngài ở trong chính thẳm sâu tâm hồn của mỗi chúng ta. Làm sao nhận ra, để tin, để xác tín và sống trọn vẹn với Chúa, Chúa vẫn ở ngay trước mặt chúng ta với những gì chúng ta đang có và đang sống hôm nay. Chúa cũng nói với chúng ta niềm tin của con đã cứu con, tin như nào thì được như thế ấy nhưng tất cả điều xuất phát từ nơi Chúa, ơn của Chúa và chính Chúa là Đấng ban ơn. Ơn Chúa luôn dư đầy cho những ai luôn biết mở rộng lòng mình để đón nhận, tin vào Chúa thì cuộc sống sẽ thay đổi tốt hơn trong từng ngày sống của chúng ta. Niềm tin có sức mạnh giải thoát nhưng chúng ta phải tin vào điều gì và tin vào ai? Đó là điều quan trọng.

Lạy Chúa xin cho con có được niềm mạnh mẽ và sâu xa vào Chúa để đời sống của con được biến đổi và được cứu chữa khỏi mọi tội lỗi.

 

24. Người mù.

Đêm nọ, có một người mù đến thăm bạn. Khi về, người bạn sáng mắt tặng cho anh ta một chiếc đèn lồng theo thói quan của người Nhật thời xưa. Thế nhưng anh mù bèn nói: Tôi không cần đèn, vì đối với tôi, tốt và sáng cũng như nhau. Nhưng người bạn trả lời: Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái, thì người khác có thể chạy đụng vào anh, anh nên cầm đi. Nghe hợp lý, anh mù ra về vời chiếc đèn lồng trên tay. Đi được một quãng, đột nhiên anh bị một người đụng phải. Với vẻ tức giận anh nói: Bộ anh không thấy chiếc đèn của tôi đó sao? Người kia liền đáp: Đèn của anh tắt rồi.

Với câu chuyện này, anh mù tưởng mình thấy, còn người kia thì không thấy chiếc đèn. Thế nhưng chính anh mới không thấy rằng đèn mình đã tắt. Con người tưởng mình thấy được nhiều chuyện nhưng lại quên hay cố tình quên nhiều cái mình không thấy.

Từ những ý tưởng trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Anh mù mang tên gọi Bartimê, có nghĩa là con của ông Timê: nghề nghiệp ăn xin, địa chỉ cư trú là lề đường thành Giêricô. Anh vừa nghèo nàn lại vừa tàn tật. Và dưới mắt người Do Thái thì đó là dấu chỉ bị Chúa trừng phạt, vì tội lỗi của bản thân hay vì tội lỗi của cha ông thuở trước. Anh bị bỏ rơi và sống bên lề xã hội. Người ta không cho anh nói ngay cả khi anh lên tiếng kêu cầu Chúa giúp đỡ.

Như thế người Do Thái tưởng rằng mình thấy rõ anh, nhưng thực ra họ lại không thấy mình bị sai lầm, không thấy nhu cầu sáng mắt của anh vượt trên những đồng tiền bố thí. Còn anh mù, tuy không trông rõ vạn vật nhưng lại thấy được chiều sâu của con người. Anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đavít là Đấng Messia. Anh thấy quyền năng của Ngài có thể giúp đõ anh một cái gì khác hơn là tiền bạc. Và như thế có một sự trái ngược: người mù đã thấy được nhiều cái mà người sáng mắt không thấy.

Chúng ta có thể phân biệt hai loại mù. Mù thể xác và mù tâm hồn. Mù thể xác thì không thấy được vạn vật, còn mù tâm hồn thì đa dạng hơn, chẳng hạn như không hiểu được những gì cần phải hiểu, không khao khát sự công chính và ơn cứu độ. Không phân biệt đâu là chân thiện mỹ… Và trên tất cả, đó là không thấy mình đang sống như người mù. Có mắt mà không nhìn và có nhìn thì cũng chẳng thấy.

Với chúng ta những người Kitô hữu cũng thế: đừng thấy người nào siêng năng đi lễ đọc kinh, ăn ngay ở lành mà đã vội cho là đủ. Đừng thấy buổi lễ rình rang với trống kèn inh ỏi thì cho rằng lễ đó trang trọng, đạt yêu cầu. Đừng thấy Giáo Hội là một tổ chức chặt chẽ, nhà thờ và tháp chuông được xây cất, vội cho rằng đạo đang được phát triển. Nhưng phải như anh mù xin cho mình được thấy, thấy rõ hơn, thấy chính xác hơn: thấy Đức Kitô là Đấng cứu độ, để rồi như anh mù rời bỏ vệ đường, dứt khoát, tìm đến với Ngài. Mặc dù chúng ta là những người có cặp mắt sáng về thể xác, nhưng biết đâu lại mù loà về tâm hồn, cho nên cùng với người mù qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta hãy kêu cầu: Lạy Chúa, xin thương xót con và cho con được sáng.

 

25. Xin thương xót tôi.

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh, dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng, nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.

Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù, chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ. Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn. Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên. Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất, ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.

Danh tiếng của Đức Giêsu Nagiarét, anh đã được nghe nhiều. Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt. Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.

Rất tình cờ, Đức Giêsu đi ngang qua đời anh. Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này. Khi nghe biết là Đức Giêsu cùng với đám đông đi qua, anh thấy cơ may đã đến.

Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu, tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ, nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng. “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!”

Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.

Nhiều người muốn bịt miệng anh, nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa. Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều. Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Đức Giêsu. Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh, vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu. Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng vất bỏ cái áo choàng vướng víu, nhẩy cẩng lên mà đến với Đức Giêsu.

Anh đi như một người đã sáng mắt, bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi. Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.

Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Đấng cho anh ánh sáng. Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Đức Giêsu.

“Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại.” Đây có phải là tiếng kêu của tôi không?

Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn. Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia. Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy. Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình. Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?

Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại. Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.

Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.

Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.

Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.

Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn nghĩ gì về nạn hành khất ở nơi bạn sống? Đâu là nguyên nhân? Đâu là cách giải quyết tốt nhất?

Nhiều người tự giam mình trong sự mù lòa. Họ chỉ thấy điều họ muốn thấy. Họ bị khép kín trong thế giới chủ quan của họ. Có khi nào bạn thấy mình mù lòa về bản thân không? Làm sao bạn được sáng mắt trở lại?

Cầu Nguyện

Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy, thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa chiếu dãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

 

26. Lòng thương – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm

Nỗi khổ của con người

Anh mù ngồi bên vệ đường, ăn xin, sống nhờ lòng thương của con người. Nếu ai đã từng bị sống trong tăm tối hay quan sát người mù, sẽ thấy bị mù cực khổ như thế nào! Phải ăn xin cũng là một nỗi khổ, và hơn nữa phải tùy thuộc người khác trong nhiều lãnh vực: đi lại và những nhu cầu tối thiểu của con người. Hiểu được như vậy, sẽ dễ dàng cảm thông tiếng kêu của anh mù hơn: “Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”.

Không phải chỉ có bệnh mù về thể lý, nhưng còn có mù về thiêng liêng nữa. Mù thể lý ngăn cản người ta thấy những gì là vật chất, còn mù thiêng liêng ngăn cản người ta thấy sự thật. Mù làm khổ mình và khổ cả người khác nữa.

Được sáng, thật hạnh phúc dường bao!

Đức Giêsu thương cảm trước nỗi khổ của con người

Những người đang hiện diện ở đó đòi người mù im lặng, nhưng anh ta lại càng la to hơn. Tại sao những người ở đó đòi anh mù im lặng? Có thể họ nghĩ tiếng kêu của anh mù vô ích, vì chẳng ích lợi gì? Đức Giêsu làm gì có tiền mà bố thí cho anh mù! Và hơn nữa, làm sao Đức Giêsu có thể chữa cho anh mù thấy được? Có lẽ không phải họ không thương anh mù cho bằng họ nghĩ Đức Giêsu chẳng giúp gì được cho anh mù. Anh ta nên im đi thì tốt hơn.

Dù bị ngăn cản và phản đối, anh mù vẫn la, và càng la to hơn. Anh ta hy vọng tiếng kêu của anh ta tới tai Đức Giêsu và được Ngài thương xót: “Lạy Con Vua Đavit, xin thương xót tôi”. Anh ta là người tin vào Đức Giêsu, chờ đợi và hy vọng nơi Đức Giêsu hơn bất cứ ai trong trường hợp này. Và tiếng kêu của anh ta đã lọt vào tai Đức Giêsu, và Ngài đã bị “đáng động” bởi tiếng kêu này. Đức Giêsu rung động trước nỗi khổ của con người.

Thiên Chúa vẫn thương cảm trước nỗi khổ của con người. Ngày xưa dân Do Thái khi bị nô lệ cực khổ bên Ai-cập, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã thương giải phóng họ khỏi Ai-cập. “Những ai vất vả và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (Mt.11, 28): Đức Giêsu cũng luôn thương cảm trước nỗi khổ của con người.

Tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, và kêu cầu Ngài, Ngài sẽ đáp cứu.

Hãy thương cảm trước nỗi khổ của con người như Đức Giêsu

Thương cảm trước nỗi khổ của con người, là nét đặc trưng của Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng muốn con người thương cảm trước nỗi khổ của anh em mình như Ngài. Người đầy tớ “không biết thương xót” anh em mình, sẽ không được thương xót (Mt.18, 23-35).

Rung động trước nỗi khổ của anh em mình, là trở nên người hơn, trở nên con Thiên Chúa hơn. Ước gì con người biết thương cảm và yêu thương người khác trong hoàn cảnh khốn khổ của họ. Ngay cả khi không có gì để cho, hoặc có rất nhiều điều để cho người khác, thì tình yêu thương vẫn là món qùa qúy nhất.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Bạn đã rung động trước nỗi khổ của con người chưa? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm.
  2. Điểm nào đáng động bạn nhất khi nghe đọc đoạn Tin Mừng Mc.10, 46-52 trên?
  3. Đức Giêsu đã bao giờ chữa bệnh mù cho bạn chưa? (Đức Giêsu có giúp bạn thấy rõ một điều gì mà trước đó bạn bị nô lệ bao giờ chưa? Nếu có xin chia sẻ.)

 

27. Tới nguồn sự sáng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Cảnh tượng này cho ta thấy đời anh bị bao phủ bởi nhiều thứ bóng tối.

Trước hết là bóng tối thể lý. Không có đôi mắt, đời anh chìm trong tăm tối. Không biết thế nào là ánh sáng. Không biết thế nào là cảnh thiên nhiên. Không nhìn được khuôn mặt của những người thân. Không tự mình làm gì được. Không tự mình sinh sống được. Chẳng biết có ánh sáng ban ngày. Đời anh chìm ngập một bóng đêm. Bóng đêm dày đặc không một chút ánh sáng. Bóng đêm triền miên không bao giờ chấm dứt. Tất cả là một màu đen. Thế giới màu đen. Quần áo anh mặc màu đen. Khuôn mặt mọi người đều màu đen. Cơm anh ăn hằng ngày cũng màu đen. Một màu đen muôn thủơ.

Kế đến là bóng tối xã hội. Vì tàn tật anh trở thành người dư thừa trong xã hội. Anh bị loại trừ khỏi xã hội. Chỉ còn ngồi bên vệ đường mà ăn xin. Như cây cỏ mọc bên đường thôi. Thậm chí khi Chúa đến, mọi người nô nức đón Chúa. Còn anh chỉ kêu lên thôi cũng đã bị người ta cấm đoán, đe nẹt rồi. Anh không có quyền gì hết. Vì anh chỉ là thân phận sống nhờ ở đậu.

Sau cùng là bóng tối tâm lý. Cuộc đời anh không có lối thoát. Anh bị kết án suốt đời chịu giam cầm trong bóng tối. Làm sao thoát ra được khi anh không thể tự mình làm gì. Khi mọi người kể cả những người thân ruồng bỏ anh. Khi xã hội gạt anh ra bên lề cuộc sống.

Nhưng Đức Kitô đem đến cho anh ánh sáng ngập tràn.

Người chiếu vào đời anh ánh sáng hy vọng. Tuy chưa được gặp Chúa, nhưng chỉ nghe những lời Chúa giảng, những việc Chúa làm anh đã tràn trề hy vọng. Chúa có thể giải thoát anh khỏi định mệnh tăm tối vây bọc cuộc đời anh. Người có thể đưa anh tới miền ánh sáng. Tương lai anh sẽ thay đổi. Cuộc đời anh sẽ tươi sáng. Anh tràn ngập niềm hy vọng. Niềm hy vọng trở thành ánh sáng chiếu soi cuộc đời anh.

Người chiếu vào đời anh ánh sáng đức tin. Tuy chưa gặp Chúa nhưng anh đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Không tin sao được vì chỉ có Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu anh khỏi bóng tối. Vì thế thoạt nghe tiếng Chúa anh đã kêu van lớn tiếng xưng tụng Người là Con Vua Đavít nghĩa là Đấng Cứu Thế. Có lẽ những người đi đón Chúa hôm ấy đều có đôi mắt sáng. Nhưng không ai có ánh sáng đức tin. Vì không ai tin Chúa là Đấng Cứu Thế. Trừ anh mù. Mắt anh mù nhưng đức tin của anh sáng. Nên anh là người duy nhất lớn tiếng tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế. Niềm tin của anh thật mãnh liệt. Dù bị mọi người chung quanh ngăn cản, niềm tin ấy không những không bị suy yếu mà còn càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bị mọi người đe dọa, cấm cản, niềm tin của anh càng vững vàng không gì có thể lay chuyển được, nên anh càng kêu to hơn.

Người đã chiếu vào đời anh ánh sáng tình yêu. Chúa là tình yêu. Chúa không nghe bằng tai nhưng nghe bằng trái tim. Vì thế giữa đám đông hỗn độn của thành Giêricô phồn hoa, Chúa vẫn nghe được tiếng kêu van của một người con bé nhỏ ngồi bên vệ đường. Không những Chúa nghe thấy tiếng lòng khốn khổ của anh mà Chúa còn ưu ái gọi anh đến. Thật là một cử chỉ ưu ái quá sức tưởng tượng. Giữa đám đông trong một thành phố phồn hoa, Chúa chẳng gọi ai trừ ra người mù ngồi bên vệ đường. Chúa chẳng chờ đợi ai trừ ra chờ đợi người con nhỏ bé tội nghiệp bị bỏ rơi nhất thành phố đến với Chúa. Đời anh chưa được ai yêu thương như thế. Đời anh chưa được ai quan tâm như thế. Đời anh chưa được ai mời gọi như thế. Đời anh chưa được ai chờ đợi như thế. Và Chúa còn hỏi anh muốn gì. Đời anh chưa được ai âu yếm như thế. Tình yêu Chúa làm cho đời anh bừng sáng. Anh tìm thấy tất cả ý nghĩa cuộc đời khi gặp được Chúa.

Chúa đem ánh sáng đến cho anh. Chúa là tất cả đời anh. Anh không cần gì khác nữa. Anh vất bỏ cả áo choàng là tài sản duy nhất. Vì anh đã khám phá ra kho tàng quý giá nhất đời. Anh đứng phắt dậy mà đến với Chúa vì tuy mắt chưa nhìn thấy mà lòng anh sáng như sao băng. Và nhất là anh đi theo Chúa cho đến cùng vì Chúa chính là ánh sáng cho đời anh. Chúa sẽ dẫn đường anh đi. Đi đến sự thật và đến sự sống.

Đời sống tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin vào Chúa. Đời sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hy vọng vào Chúa. Đời tôi mệt mỏi chán chường vì tôi chưa yêu mến Chúa. Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng đức tin sẽ chiếu soi đường đời tôi đi. Hãy hy vọng vào Chúa. Niềm hy vọng là ánh sáng ấm áp cho cuộc đời. Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêricô bỏ tất cả mà theo Chúa. Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Hãy kể ra những thứ bóng tối trong đời anh mù thành Giêricô.

2) Hãy kể ra những thứ ánh sáng Chúa đã chiếu vào đời anh

3) Tại sao anh mù sau khi hết mù đã đi theo Chúa?

4) Bạn có bị bóng tối nào bao phủ đời bạn không?

5) Bạn có tìm thấy Chúa là ánh sáng cho đời bạn không?

 

28. Chúa chữa anh mù Bactimê

(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Khảm)

Trong bài hát Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi, chúng ta hát lên: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục…” Chúng ta lại hát tiếp: “Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu”.

Lời kinh này không chỉ là một lời cầu nguyện mà còn là một lời kinh diễn tả lối sống đích thực của mỗi người Kitô hữu. Như vậy bổn phận của mình không phải chỉ là đem yêu thương vào nơi oán thù mà còn phải dọi ánh sáng vào nơi tối tăm.

Có một câu chuyện kể như thế này:

Một anh mù đi thăm một người bạn. Đã lâu không gặp nên đôi bạn hàn huyên mãi quên cả thời gian. Khi trời tối mịt thì anh mù mới cáo từ ra về. Anh bạn bảo: “Thôi để tôi thắp cho anh cái đèn, trời tối quá rồi”. Anh mù nghĩ là bạn muốn đùa nên trả lời: “Anh muốn đùa hả? Tôi mù thì ngày và đêm có khác gì nhau đâu”. Anh bạn vội vàng xin lỗi nói: “Tôi đâu có dám đùa với anh, ý tôi là anh nên cầm cái đèn để người ta sẽ thấy sáng và không đụng phải anh”. Anh mù nghe nói có lý liền vui vẻ hiên ngang xách đèn ra về. Đi được một đoạn thì có một người đi ngược chiều đụng phải, làm anh mù ngã xuống vệ đường. Quá tức giận, anh lồm cồm ngồi dậy chửi đổng: “Đồ đui, người ta cầm cái đèn sáng như thế này mà không thấy hả?”. Người kia liền mắng lại: “Mày mới là đồ đui, đèn tắt mẹ từ lúc nào mà còn chửi người ta”.

Coi chừng chúng ta lại rơi vào tình trạng như thế. Nếu mình rơi vào tình trạng đấy thì rất nguy hiểm. Làm sao có thể dọi ánh sáng vào nơi tối tăm khi mà chúng ta không có ánh sáng, hoặc ánh sáng chúng ta đã bị tắt ngấm từ lâu.

Đặt câu hỏi như thế thì chúng ta thấy anh mù Bactimê sẽ trở thành gần gũi với mình hơn. Anh ta không còn là khuôn mặt xa lạ của 20 thế kỷ trước, mà giờ đọc lại mình có cảm tưởng như là đọc truyện cổ tích. Anh ta giờ trở thành một khuôn mặt mời gọi mình suy nghĩ về vấn đề của chính cuộc đời mình.

Ngày nay người ta nói đến mù chữ, vài năm nay lại thêm mù vi tính. Một thứ mù về mặt trí tuệ. Phúc Âm kể cũng có lần Chúa Giêsu mắng các môn đệ: “Các ngươi có mắt mà cũng như mù”. Và đây là một thứ mù về mặt tâm linh.

Khi kể câu chuyện này tôi không nhắm đến mù thân xác, vì thời đó có rất nhiều người mù, nhưng Chúa Giêsu không chữa cho tất cả. Ngài chỉ chữa cho một số người mang tính biểu tượng. Cũng không phải thánh Maccô nói đến mù chữ, vì chúng ta không nghe kể Chúa Giêsu mở lớp tình thương để dạy học. Như vậy chắc chắn là thánh Macco nhấn mạnh mù về mặt tâm linh, mù về mặt tinh thần. Ta có thể hiểu như thế nào về tình trạng mù này?

Có một câu chuyện kể về các người mù rủ nhau đi xem voi. Xem xong thì cùng nhau ngồi lại bàn tán, mô tả xem con voi nó giống như cái gì?

Anh sờ được cái chân thì dõng dạc tuyên bố: con voi nó giống như cái cột nhà.

Anh khác thì oang oang: con voi nó giống như cái quạt. Vì anh này rờ được ngay cái tai của nó.

Còn các anh sờ cái bụng, cái vòi. Ta không biết họ sẽ mô tả con voi giống như cái gì.

Suy nghĩ kỹ chuyện này thì thấy cũng thấm thía lắm. Tôi muốn chia sẻ với anh chị em là: chúng ta có thể rơi vào tình trạng mù về mặt tinh thần, có nghĩa là ta không nhìn thấy được chân lý toàn diện về cuộc sống. Ta chỉ nhìn thấy chân lý phiến diện như anh mù mô tả con voi “nó giống như cái cột nhà”, như thế là rất phiến diện.

Từ 30 năm về trước, một nhà xã hội học Mỹ… đã lên tiếng về con người thời đại. Ông gọi: “Con người một chiều kích”. Tôi thấy nhận xét ấy vẫn đúng cho đến ngày nay và chắc có lẽ càng ngày sẽ càng đúng hơn.

Cuộc sống con người chúng ta được đan kết bằng nhiều chiều kích. Có một chiều kích hướng thượng, mình gọi là chiều dọc trong mối quan hệ với Thiên Chúa. Có một chiều kích ngang nữa, trong quan hệ bình đẳng yêu thương đối với mọi người, và có một chiều quan hệ đối với thế giới vật chất.

Càng ngày con người ta càng quên mất cái chiều hướng thượng, quên mất mối quan hệ hàng ngang với anh em trong tình yêu thương, mà chỉ quan tâm đến quan hệ tình bạn với thế giới vật chất.

“Con người một chiều kích”. Chúng mình không khám phá, không sống được cái chân lý toàn diện về cuộc sống của con người. Nguyên nhân nào có thể dẫn đến tình trạng đó.

Trở lại với hoàn cảnh của những anh em khiếm thị. Hầu hết đều bị mù từ lúc mới sinh. Có một số do tai nạn sau này. Nếu hiểu mù là mình không thấy sự vật thì cũng có lúc mình cũng không nhìn thấy mặc dù mắt mình vẫn sáng. Chẳng hạn như có sự cố cúp điện hay lúc mình bị đau mắt phải lấy khăn che mắt cho đỡ chói, đỡ nhức. Những hình ảnh ấy khiến tôi nghĩ đến tình trạng mù về mặt tinh thần. Nếu bảo về tinh thần mù lòa từ lúc mới sinh thì không thể tin được.

Tất cả mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa đều ban tặng cho mọi người khả năng nhận biết chân lý.

Ta có thể rơi vào tình trạng mù tâm linh là do nguyên nhân thứ 2, thứ 3. Nghĩa là mình thiếu ánh sáng. Do những hoàn cảnh và những môi trường sống.

Hiểu như vậy, ta thấy rằng hầu hết chúng ta đều là những người mù đáng thương về mặt tâm linh. Vì vậy, chúng ta hãy khiêm tốn chạy đến với Chúa để người chữa trị. Người sẽ giúp chúng ta nhìn thấy chân lý toàn vẹn. Người sẽ giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Cha của chúng ta và mọi người là anh em của ta. Người sẽ giúp ta nhận ra con đường tiến về nhà Cha trên Trời. Con đường đó là con đường Chúa Giêsu đã đi và đã tới đích. Và đó cũng là con đường hẹp, con đường ngược dốc, con đường thập giá nhưng là con đường dẫn đến sự sống vinh quang và vĩnh cửu. Amen.

 

29. Chúa Nhật 30 Thường Niên.

Anh chị em thân mến.Có lần tôi nghe bài hát được ca sỹ Nguyễn Hưng diễn tả hết tâm tình, nên tôi rất thích. Bài hát mang tên Đôi mắt, trong đó có những câu;

Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời. Để nhìn đời, và để làm duyên. Mẹ cho em đôi mắt mầu đen, Để thương để nhớ, để ghen để hờn. Đôi mắt em là cửa ngõ tâm hồn, Là bài thơ hay nhất, Là lời ca không dứt, Là tuyệt tác của thiên nhiên.

Thật thế, đôi mắt là cửa ngõ tâm hồn, là tuyệt tác của thiên nhiên. Nếu đôi mắt đóng lại, thì mọi hướng đi dường như cũng đóng lại và cuộc đời dường như ở vào một tình thế bất động, ở bên lề của cuộc sống.

Nhìn vào anh mù đang ngồi ở vệ đường. Đôi mắt anh ta không thể mở được, nên anh ta đành ở bên lề cuộc sống, anh ngồi bên lề đường, không thể hòa cùng mọi người để có những bước chân thong dong trên đường. Anh ta còn phải trông chờ vào những của bố thí dư thừa để nuôi sống bản thân. Anh ta cũng trông chờ những tin tức dư thừa để theo dõi tình hình chung quanh một chút ít nào đó, đôi khi còn bị ngăng cản. Anh cũng muốn hòa với mọi người bước trên đường cuộc sống, nên khi được hỏi, không cần suy nghĩ lâu, anh trả lời ngay: “Lạy Ngài xin cho tôi được sáng mắt”. Anh không xin tiền bạc hay của nuôi thân. Anh đã vất tấm áo choàng là món đồ nghề của mình, nhảy chồm lên, vượt khỏi tình trạng bất động, bên lề đường, bên lề cuộc sống. Cú nhảy là bước chân đầu tiên để bước vào con đường của cuộc đời. Mặc dù đôi mắt thể chất chưa được sáng nhưng mắt tâm hồn anh đã mở ra, đã nhìn thấy Đấng mở mắt cho mình. Anh bước theo con đường mà ngài dẫn dắt.

Mỗi người chúng ta có được cái tuyệt tác của thiên nhiên, cửa ngõ tâm hồn đó là đôi mắt. Nhưng vì chúng ta xử dụng quá nhiều để nó trở nên là cái gì quá bình thường, cho đến đỗi nhiều khi chúng ta không còn biết quí trọng nó nữa, thậm chí nhiều khi chúng ta quên mất đi sự hiện diện của cái tuyệt tác này. Khi nào mà đôi mắt có vấn đề, khi đó chúng ta mới cảm thấy phải chú ý, nhưng có khi lại quá trể để không còn có thể làm gì được nữa.

Cái cửa ngỏ của tâm hồn đó nhiều khi cũng bị chúng ta đóng kín nó lại, không cho nó nhìn thấy những điều cần phải thấy, không cho nó nhìn thấy hướng đi đúng đắn để mà đi. Chúng ta muốn ngồi bên lề cuộc sống để hưởng thụ, bất chấp những tiếng xôn xao của cuộc đời, bất chấp những bước chân của sự thật, bất chấp lời mời gọi đứng lên của Thiên Chúa. Chúng ta cố bám lấy chiếc áo choàng của sự ích kỷ để tìm tư lợi bản thân, áo choàng của sự nóng nải, cố chấp để không thể nghe được tiếng mời gọi thống thiết, áo choàng của sự ghen tương đố kỵ, để không thể bước chân trên con đường yêu thương và chấp nhận người khác ở bên cạnh. Chúng cũng không thể vượt qua được sự tự ái quá lớn của bản thân, vì chiếc áo choàng đó quá nặng nề làm trì trệ bản thân. Chính vì thế chúng ta không thể nào có được cú nhảy vọt như anh mù trong bài phúc âm mà chúng ta vừa nghe. Nhiều lần Chúa đến bên cạnh, hỏi ý kiến, nhưng chúng ta không dám mở lời xin cho được sáng mắt, vì sợ phải bỏ đi chiếc áo choàng nghề nghiệp của mình. Chúng ta cũng sợ phải bước đi theo Chúa, vì con đường của Ngài là con đường Thập Giá, con đường vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, là con đường yêu thương. Chúng ta sợ phải vất đi chiếc áo choàng bản thân mình, nên nhiều lần không nhận ra được Ngài trong đám đông qua lại của cuộc đời. Chúng ta vẫn mở mắt nhìn nhưng không thấy gì, vì chỉ thấy chiếc áo choàng của bản thân và những lợi lộc dư thừa đang chứa trong đó. Nếu như thế thì cửa ngõ tâm hồn mình đã tự đóng lại, vậy thì cái tuyệt tác của thiên nhiên đã phí đi nơi con người của chúng ta. Chẳng lẽ con đường mà Chúa Giêsu bước đi cùng với bao nhiêu người đã từng bước theo, không phải là con đường của chúng ta sao? Chẳng lẽ chúng ta chịu ngồi lì bên lề cuộc sống mãi như thế sao? Vậy thì tương lai mai sau, kết thúc cuộc đời chúng ta cũng đành chịu ngồi bên lề cuộc sống, chứ không chịu vào con đường hạnh phúc mà Thiên chúa mời gọi mỗi người cùng chung hưởng hay sao? Như thế thì cuộc sống đời người vô ích quá.

Xin Chúa mở mắt tâm hồn để chúng ta nhìn thấy đường đi của Ngài và can đảm bước theo.

 

30. Lòng tin của anh đã cứu chữa anh!

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Các đề tài liên quan đến các khuyết tật như câm, điếc, mù lòa… xem ra dễ trình bày và hình như cấu trúc xưa nay ít đổi thay. Trước hết đề cập đến các nổi khổ đau của những người mang khuyết tật về thể lý. Nào là chuyện câm thì không thể, đúng hơn là rất khó giao tiếp với tha nhân, rồi chuyện mù thì không được diễm phúc nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không thấy được vẻ đẹp của hạt sương long lanh trên cành hoa, không thấy được khuôn mặt của người đối diện, vân vân và vân vân. Rồi sau đó lại triển khai nổi khốn khổ của những người mắc các khuyết tật tinh thần hay tâm linh như chuyện có mắt mà như mù, có tai mà chẳng biết nghe hay không thèm nghe…và dĩ nhiên sẽ kéo theo những mối nguy hại cho bản thân họ hay cho xã hội.

Trong văn thơ có thể loại được gọi là “huề vốn” nghĩa là có nói cũng không thêm gì. Một ví dụ: “Đứng bên này sông thấy bờ bên kia sông. Bơi qua bờ bên kia thì thấy bờ sông bên này. Bơi ra giữa sông, hụp đầu xuống thì không thấy bờ sông nào.” Đã là người thì không một ai đành cam chịu cảnh mù lòa khi còn khả năng làm sáng đôi mắt. Cũng chẳng một ai thấy dễ chịu khi đang sáng mắt mà bị chê trách là đui mù. Xin cũng được dùng kiểu nói “huề vốn” để vào thẳng vấn đề, đúng hơn là để luận bàn đôi điều về điều gọi là “thấy”. Ai là người đang bị mù? Thưa đó là những người không thấy.

Đó là những ai không thấy người anh chị em mình đang túng cực, nghèo khổ mong kiếm cho được ba chục ngàn mỗi ngày để sinh sống, chưa kể nếu có người thân phải cưu mang. Đó là những ai không thấy người anh chị em của mình đang bị bóc lột sức lao công do bởi những người lắm tiền, nhiều quyền trong xã hội. Đó là những ai không thấy anh chị em của mình đang bị đối xử bất công do bởi những người nắm quyền bất nhân hay do bởi các luật lệ bất minh. Đó là những ai không thấy nền giáo dục nước nhà đang loay hoay trong ngõ cụt vì những cơ chế phi lý, lạc hậu, lỗi thời…Đó là những ai không thấy con thuyền của một vài Giáo Hội địa phương xem ra đang vất vả lướt sóng không nguyên chỉ vì bão tố thế gian mà còn có thể vì quá nặng nề với các “lễ hội” bên ngoài, để rồi dù không phải là xao lãng, nhưng chưa xem trọng nghĩa vụ sống yêu thương, làm chứng cho sự thật, bảo vệ công lý, loan truyền Tin mừng… Đó là…

Thế nhưng căn cứ vào đâu để xác định rằng ai đó đã và đang không thấy? “Phản ứng hay hiệu ứng” là một trong những biểu hiện cho biết là ai đó đang còn thấy. Với người hấp hối hay người gặp một sự cố nặng về thể lý thì người ta thường lấy đèn soi vào mắt hay một kiểu cách vẩy ngón tay sát mắt nạn nhân để xem phản ứng đôi mắt của họ. Khi thấy được vẻ đẹp một cánh hoa, hay một quang cảnh kỳ lạ thì người ta không thể không có phản ứng cho dù có thể mỗi người một cách khác nhau. Một cái thấy được gọi là thấy, khi và chỉ khi đối tượng được thấy gây được một hiệu ứng nào đó nơi người thấy nó. Cũng thế, chúng ta chỉ có thể gọi là thấy, khi những điều đập vào mắt chúng ta làm phát sinh trong chúng ta những tâm tình như vui, buồn, hoan hỷ, giận dữ, đồng cảm, đồng thuận hay bất bình, phẫn nộ…

Nếu làm thống kê thì con số người không thấy có lẽ là rất ít. Dù không thể đòi hỏi cách tuyệt đối, nhưng thử hỏi trong số những người được gọi là có thấy thì được bao nhiêu phần trăm là thấy đúng sự vật hiện tượng, thấy đúng bản chất của đối tượng như nó là? Mỗi khi đã thấy rõ, thấy đúng thì người ta sẽ dễ có phản ứng chính xác, hợp lý và cả hợp tình. Một nguy hiểm và cũng là vấn đề cần đặt ra, đó là chúng ta chỉ thấy cách phiếm diện, một chiều mà cứ tưởng rằng mình thấy đúng, thấy rõ. Vì thế các phản ứng của chúng ta nhiều khi vừa thiếu chính xác, lại vừa thiếu lý, thiếu tình. Dĩ nhiên với phận phàm hèn, không một ai dám to gan cho rằng mình có thể thấy đúng, chính xác cách hoàn toàn. Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta có thể lơ là việc tìm cách để thấy các sự vật, hiện tượng ngày một đúng đắn và chính xác hơn, vì đây là một tiền đề không thể thiếu để có được những phản ứng hợp lý, hợp tình.

“Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Câu nói của Chúa Giêsu với anh mù Bactimê trong ngữ cảnh bài Tin mừng đề cập trực tiếp đến thái độ cậy trông của anh Bactimê vào tình yêu và quyền năng của Người. Và thái độ cậy trông ấy được thể hiện bằng việc anh ta cương quyết gặp Chúa Giêsu bất chấp mọi trở ngại. Tuy nhiên câu nói ấy cũng cho chúng ta chiếc chìa khóa giải quyết vấn nạn thấy. Để có thể thấy và thấy đúng thì cần có lòng tin. Chúng ta dễ đồng thuận với nhau về sự thật này nếu chấp nhận rằng tin là nhìn với cái nhìn của Thiên Chúa. Thế nhưng lại phải tự hỏi với nhau rằng khi nào thì chúng ta đang nhìn với cái nhìn của Thiên Chúa? Quả thật, để tìm được câu trả lời khả dĩ có tính thuyết phục thì không mấy dễ. Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta biết rằng những ai ở trong ân sủng, tức là có sự kết hiệp mật thiết với Chúa thì sẽ biết cách nhìn như Chúa nhìn. Trong vấn đề này, các nhà tu đức chỉ dạy chúng ta kế sách tuyệt với đó là hãy chuyên chăm cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh này của con, Chúa sẽ thấy sự kiện, vấn đề này ra sao?”. Qua đời sống câu nguyện, nỗ lực kết hiệp với Chúa thì ta sẽ biết nhìn như Chúa nhìn.

Một kinh nghiệm dân gian có thể nói là khá chính xác: “Con chim sắp chết hót tiếng bi ai. Con người sắp chết nói lời lẽ phải”. Để nói được lời lẽ phải, thì người cận kề với cõi đời sau hẳn đã thấy được chân tướng các sự vật hiện tượng cách nào đó. Tin Mừng cho ta hay trong cuộc đời công khai rao giảng, Chúa Giêsu luôn hướng về cái giờ của Người, đó là giờ mà Người sẽ bỏ thế gian này mà về cùng Cha bằng cái chết trên thập giá. Và đây chính là một trong những chìa khóa giúp Chúa Giêsu nhìn thấy các sự vật hiện tượng theo cái nhìn của Cha trên trời, để rồi có được những cách thế phản ứng thuận ý Cha, đẹp lòng Cha (x.Mt 3,17; Mc 1,11).

Vì sao còn có những phản ứng chưa thấu lý và đạt tình nơi Kitô hữu, giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ? Một trong những nguyên nhân đó là vì ta chưa thấy đúng sự vật hiện tượng. Vì sao ta chưa thấy đúng sự vật hiện tượng? Vì ta chưa biết nhìn như Chúa nhìn. Chưa biết nhìn như Chúa nhìn, ngoài những lý do khách quan thì rất có thể vì ta chưa thực sự gắn bó thiết thân với Chúa và cũng ít nghĩ đến cái giờ ta rời bỏ thế gian.

 

31. Lòng tin của anh mù

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Người mù là một kẻ bất hạnh và khổ sở triền miên. Tất cả thế giới sinh hoạt chung quanh như khép kín, đóng cổng trước mặt họ. Cả một đời họ phải chấp nhận sống lệ thuộc vào những người khác. Cho nên, tâm lý của người mù là họ dám làm bất cứ chuyện gì để được sáng mắt. Chẳng hạn như anh mù Ba-ti-mê trong bài Tin Mừng, dám coi nhẹ mọi người, bất chấp tất cả, anh kêu gào xin Chúa Giêsu cứu chữa khi Ngài đi ngang qua thành Giê-ri-khô về Giê-ru-sa-lem.

Có một người mù, một đêm kia đến thăm một người bạn thân. Hai người trò chuyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một cái đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói: “Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau”. Người bạn trả lời: “Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối xe cộ có thể chạy đụng vào anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi”. Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đi xe Hon-đa đụng phải. Với vẻ buồn lẫn tức giận, anh mù nói: “Coi kìa, người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi?”. Người kia đáp: “Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không thấy. Mong anh thông cảm”. Anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận: “Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy”.

Anh mù Ba-ti-mê trong bài Tin Mừng lại khác: anh thấy nhiều cái mà người sáng mắt không thấy: anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đa-vít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin, và chính vì lòng tin này, Chúa Giêsu đã thương anh, cứu chữa anh, cho anh được sáng mắt.

Chúng ta hãy tìm hiểu thêm: đám đông ồn ào tấp nập đi theo Chúa Giêsu trên đường, còn anh ta ngồi ăn xin bên lề đường. Anh hỏi người ta có chuyện gì mà ồn ào vậy? Người ta nói cho anh biết có Đức Giêsu đi ngang qua. Có lẽ anh đã nghe nói về lòng từ bi và uy quyền toàn năng của Chúa Giêsu chăng, nên anh liền kêu to lên: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đa-vít, xin thương xót tôi”. Người ta chỉ nói cho anh biết, đó là Đức Giêsu, nhưng anh lại kêu xin “Con vua Đa-vít”. Như vậy anh đã nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a, Đấng Thiên Sai. Anh mù nhưng anh lại thấy rõ hơn những người sáng đi theo Chúa Giêsu.

Chắc anh phải kêu to lắm. Còn đám đông lại bắt anh im đi. Nhưng vô ích đối với anh, đây là dịp may hiếm có của hy vọng bừng lên. Thế là anh càng kêu gào to hơn cho Chúa nghe được: “Hỡi con vua Đa-vít, xin thương xót tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa trong Kinh Thánh. Nghe thế Chúa Giêsu dừng chân và truyền gọi anh ta lại. Thế là đám đông thay đổi thái độ. Trước đó họ bắt anh im đi, bây giờ họ lại khuyến khích anh. Anh liền vứt bỏ áo choàng, vui mừng nhảy cẫng lên đến với Chúa. Chúa hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Chúa hỏi như vậy không phải để biết anh muốn gì, xin gì, nhưng là để tăng thêm lòng tin cho anh, và cũng là dịp để anh tỏ lộ lòng tin công khai. Anh trả lời: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Anh mù, mắt anh không thấy Chúa, nhưng lòng anh đã thấy Chúa, vì anh có lòng tin, như Chúa đã xác nhận: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Bằng một lời đó thôi, Chúa đã thay đồi cuộc đời của anh: từ nay anh không còn ngồi bên lề đường nữa. Lòng tin đã đưa anh lên đường. Anh được sáng mắt ngay lúc đó và đi theo Chúa trên đường. Anh sáng của Đấng Thiên Sai còn giấu ẩn trong Đức Giêsu Na-da-rét đã tỏa ra trên anh, trên đôi mắt anh. Anh là ngọn đèn Chúa đã thắp lên cho mọi người được nhìn thấy Ngài.

Nói rõ hơn, đám đông đang đi với Chúa Giêsu trên đường, nhưng thực ra là họ đang ở bên lề đường, vì họ đi trên cùng một con đường nhưng chưa đồng hành với Chúa, chưa đi theo Chúa. Họ sáng mắt, nhưng họ chỉ thấy Giêsu người Na-da-rét, chứ không thấy gì hơn. Cũng như họ chỉ thấy một người mù ngồi ăn xin, chứ không thấy lòng tin của anh. Còn anh mù, anh đã thấy Ngài là Đấng Thiên Sai, con vua Đa-vít. Anh đã thấy bằng lòng tin khi anh còn mù, và bây giờ anh đã thấy Ngài tận mắt. Anh đi theo Ngài.

Lòng tin của anh mù đã cứu chữa anh và là bằng chứng để người ta tin vào Chúa Giêsu. Tất cả chúng ta là những người đã có đức tin, chúng ta đang đi theo Chúa. Nhưng đức tin của chúng ta thế nào? Và chúng ta có làm cho người khác nhận ra đức tin của chúng ta qua đời sống chúng ta không?

Đối với chúng ta, ngoài việc tuyên xưng đức tin trong thánh lễ, thì trong mọi sinh hoạt hằng ngày chúng ta cũng phải tuyên xưng đức tin nữa bằng những việc từ thiện bác ái và sống cởi mở với những người chung quanh. Nếu chúng ta chỉ tuyên xưng đức tin một cách trọng thể, trong những lễ lạc, trong nhà thờ…mà chúng ta không có một cử chỉ bác ái đối với những người ngoài là chúng ta chưa thực sự sống niềm tin ấy. Xin Chúa cho chúng ta biết sống và thể hiện đức tin trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.

 

32. “Đức tin của anh đã cứu anh” – Yvon Daigneault.

Một kinh nghiệm thắm thiết của tôi là chứng kiến đức tin tinh tuyền và trong sáng của một con người. Niềm tin tưởng đạt đến một mục tiêu, dù táo bạo tới đâu đi nữa cũng sinh ra những hậu quả có vẻ lạ lùng. Niềm tin của một số người khuyết tật, mong muốn được giải phóng khỏi những gì giam hãm họ, niềm tin của những nghệ sĩ muốn sáng tạo được một tác phẩm, niềm tin của bao nhiêu người nam người nữ muốn dấn thân vào những sự nghiệp có vẻ tuyệt vọng là những giá trị nhân bản nâng đỡ và khích lệ con người trước mọi khó khăn.

Lớn hơn nữa, đáng phục hơn nữa là đức tin của một người đau khổ khốn cùng tìm đến với Thiên Chúa và van xin Ngài xót thương. Thiên Chúa xúc động vì sự tin tưởng của người ấy nên đã dịu dàng nói với anh ta: “Hãy về đi, đức tin của anh đã cứu anh”.

Tin và gặp gỡ Thiên Chúa.

Đức tin chính là mối tương quan mà Chúa mời gọi chúng ta nối kết với Ngài. Đây không phải là một đòi hỏi xa lạ. Tất cả những mối tương quan của chúng ta đều dựa trên lòng tin và sự tin tưởng: Cuộc sống hôn nhân, việc giáo dục con cái, những tình bạn, sự cộng tác trong công việc. Khi người ta không tin tưởng nhau nữa, thì những mối tương quan sẽ sụp đổ. Trái lại, sự tin tưởng lẫn nhau, sự tôn trọng và lòng kiên nhẫn giúp ta tạo lập những mối liên hệ vốn thuộc hàng những yếu tố tốt đẹp nhất và sáng tạo nhất của cuộc sống.

Đối với Thiên Chúa cũng vậy, Ngài không thiếu tin tưởng nơi chúng ta. Chính chúng ta mới là kẻ nghi ngờ và lo âu trước mặt Ngài: vì một vết nhơ tội lỗi cũ và tính kiêu ngạo nhỏ nhen của chúng ta.

Thiên Chúa kêu gọi chúng ta. Lời đáp trả nảy sinh chậm rãi trong lòng chúng ta. Lúc ban đầu chúng ta không biết, chúng ta không thấy, chúng ta không hiểu rõ. Chúng ta không biết Thiên Chúa muốn gì, tin nơi Ngài là gì? Phó thác cho Ngài là gì? Thế nào là cam kết vâng phục Ngài, đặt lời Ngài ở trung tâm cuộc sống chúng ta, đặt trọn cuộc sống của chúng ta theo ý Ngài? Và lời hứa một mối tương quan hữu nghị cho ta được sống đời đời với Ngài là gì?

Người mù thành Giêricô biết tin tưởng

Bài đọc Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cho chúng ta chứng kiến đức tin của một con người như chúng ta. Đức tin không dễ đến với người ấy. Lúc ban đầu dường như đức tin khó khăn đối với anh ta hơn là đối với những kẻ khác, tật mù loà đã loại anh ra khỏi cộng đồng nhân loại và đã đẩy anh vào một nỗi cơ cực lớn. Không có gì là thuận lợi cho đức tin của anh. Xem ra anh ta hy vọng cách hão huyền khi xác tín về một phép lạ có thể xảy đến… Anh sống thực tế nên không tin được rằng người ta có thể làm cho một người mù trở nên sáng mắt.

Chúng ta phải ý thức một thực tại: đức tin được Thiên Chúa ban cho chúng ta chứ không phải nhờ những phương tiện của chúng ta mà đạt được. Ở đây, trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người mù này, Chúa Giêsu đã thu hút anh một cách nhiệm mầu: nhờ uy tín của danh hiệu “Con Vua Đavít” mà dư luận đã thổi vào tai anh. Anh mù này không thể đến với Chúa Giêsu. Điều mà anh không dám mơ tưởng trong lòng đã xảy ra. Chúa Giêsu tiến lại phía anh, và Ngài gọi anh. Ơn đức tin được ban cho anh và anh đáp lại bằng việc hiến dâng mình một cách trọn vẹn, một bước nhảy vọt hướng về Thiên Chúa. Lúc đó anh dám xin Chúa Giêsu điều không thể được. Nhìn thấy, nhìn thấy Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu đã ban cho anh do bởi lòng tin của anh.

Điều quan trọng trong cuộc gặp gỡ này không phải là phép lạ, Chúa Giêsu không nói với anh mù: “Đức tin của anh đã cho anh sáng mắt”, Ngài nói với anh: “Đức tin của anh đã cứu anh”, nghĩa là: vì anh đã tin nên giữa anh và tôi, có một mối liên hệ vững bền, mối liên hệ cứu độ, mối liên hệ của Giao ước mới.

Có quá đáng không khi nghĩ rằng, đối với một số tín hữu, đức tin là một gánh nặng? Tuy nhiên về phía Thiên Chúa ban đức tin cho chúng ta, nó là một ánh sáng, một sự giải thoát, một tình bạn với Ngài, một niềm cậy trông không thể thất vọng được. Tin là đón nhận Thiên Chúa trong đời mình với một niềm tin tưởng của trẻ thơ.

 

33. Đui chột – Lm. Minh Anh

Chuyện kể rằng, có một thanh niên mù lòa từ thuở mới sinh. Anh phải lòng một cô gái. Càng biết cô, tình cảm anh dành cho cô ngày càng sâu sắc. Với anh, cô thật duyên dáng, thông minh và trìu mến. Từ đó, một tình yêu chân thành và đằm thắm cũng đâm chồi giữa hai người.

Cho đến một ngày kia, có người bạn nói với anh, cô gái ấy không xinh đẹp, không xứng đáng với anh… Hỡi ôi, cũng từ dạo ấy, sự quan tâm anh dành cho cô bắt đầu vơi và tương quan giữa hai người cũng trở nên hờ hững. Kể cũng tệ thật! Vì có bao giờ anh nhìn thấy cô ấy đẹp đâu? Một người mù như anh đâu có phán đoán theo dáng vẻ bên ngoài? Và với anh, để nhìn thấy, đôi mắt đâu phải là tất cả. Anh mù lòa đã đành, nhưng xem ra bạn anh và lòng anh lại đui chột hơn.

Tình yêu đâu chỉ được nhìn từ bên ngoài cũng như tự nguyên ngữ, “trừu tượng” là thuộc tính của tình yêu. Saint Exupéry thật có lý khi nói, “Điều chính yếu thì không thể thấy bằng mắt. Để thấy nó, phải nại đến con tim, nại đến tâm hồn”.

Các bạn trẻ thân mến,

Trình thuật Tin Mừng hôm nay cũng nói đến một thanh niên mù lòa khác, tên anh là Bartimê, người đã đến với Đức Giêsu. Thánh Marcô kể, vừa nghe Ngài đang ngang qua, anh bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu con vua Đavid, xin dủ lòng thương tôi”, và lập tức quăng lại áo choàng, anh đến với Ngài.

Mỗi ngày, là một kẻ tật nguyền câm nín bên vệ đường, chẳng có gì lạ khi anh xin người khác dủ thương. Nhưng hôm nay, thật lạ, vì với tư cách một thanh niên, anh gọi đích danh một thanh niên khác để xin dủ lòng. Và để có thể lặp đi lặp lại một lời cầu xin khẩn thiết đến thế, hẳn anh phải tin chắc người bạn trẻ ấy có khả năng chữa lành không chỉ đôi mắt xác thể nhưng cả sự u mê dày đặc có thể có trong tâm hồn mình; người thanh niên ấy hẳn không chỉ bứng anh ra khỏi vệ đường nhưng còn đưa “anh đi theo Ngài trên con đường Ngài đi” như Tin Mừng kết thúc. Đây là cao trào của trình thuật. Thật tuyệt vời và huyền nhiệm, hẳn anh sẽ là môn đệ của Đức Giêsu.

Thật đáng cho chúng ta kinh ngạc, vì dẫu Bartimê đang mù loà thể chất, nào ngờ đâu, mắt tâm hồn của anh chẳng vẩn đục chút nào; trái lại, nó thật ngời sáng, đúng hơn, mắt đức tin của anh chói sáng.

Phần chúng ta, chúng ta đang sống trong một thế giới tranh tối tranh sáng, ở đó, bóng tối tưởng chừng như đang nuốt chửng ánh sáng, một thế giới mà khả năng nhìn thấy ánh sáng của đôi mắt đức tin thật cấp thiết và sống còn. Vì lẽ ngoài khuyết tật mù lòa thể chất, thế giới đang chứng kiến nhan nhãn bao hội chứng đui chột tinh thần. Cũng có thể mỗi người chúng ta đang mắc phải một trong những hội chứng đó.

Hội chứng ích kỷ, bức tường che chắn những nhu cầu của anh chị em.

Hội chứng vô cảm, giấy thông hành để vô cảm trước bao vết thương vô tình hay cố ý gây cho người khác.

Hội chứng tự phụ, thảm đỏ trải trên những sai sót của bản thân.

Hội chứng ghét ghen, tảng băng nổi cản lối đại cuộc.

Hội chứng duy vật, mù sương trước những giá trị tinh thần.

Hội chứng nông cạn, voan che các giá trị đích thực của một con người.

Hội chứng hợm hĩnh, man khai phủ lấp một thực tế: mọi người có nhân phẩm như nhau.

Hội chứng thành kiến định kiến, pháo đài án ngự sự thật.

Hội chứng sống hối hả, tính cách của người đánh mất muôn vẻ kỳ diệu chung quanh

Như vậy, một con tim nghèo, một đầu óc hẹp, một tâm hồn nhỏ… tất cả đều dẫn đến hội chứng đui chột, triệu báo một nhãn quan gập gãy, què quặt, phủ đầy bóng đêm lên ngày sống và… thế giới phải hẹp lại (x. F. McCarthy). Vậy thì, không chỉ đôi mắt mới làm cho thấy, chúng ta còn phải thấy bằng trí óc, qua tinh thần và nhờ con tim. Là Kitô hữu, còn hơn thế nữa, Kitô hữu thấy nhờ tin, tin vào Thiên Chúa, tin vào Đấng Ngài đã sai đến. Đấng ấy chính là Đức Giêsu Kitô, là Ánh Sáng phải đến đã đến trong thế gian mà anh mù Bartimê đã nhận ra.

Vậy là có nhiều thứ đêm tối cũng như có nhiều loại đui chột. Có thứ đêm tối phàm phu, có loại đui chột tục tử. Cũng thế, có thứ đêm tối đức tin, có thứ đui chột của lòng trông cậy. Cảnh vực thần linh còn đó, sự hiện diện của Thiên Chúa còn đây, nhưng sẽ không thấy gì, sẽ không cảm nhận gì nếu không có đức tin. Anh mù Bartimê đã có một đức tin mạnh mẽ, anh đã thấy nhờ tin. Đức Giêsu nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh”.

Đức tin là ánh quang soi dọi thế giới vô hình, chiếu sáng những điều vĩnh cửu và mặc khải những điều trên cao. Đức tin là những ngọn đèn đường dọc theo đaị lộ dẫn đến cuộc sống đời đời mà những kẻ không tin chẳng bao giờ có thể bước đi trên đó.

Thế nhưng, bạn đừng quên, những ngọn đèn ấy, những ánh quang ấy thường chỉ đủ sáng cho những ai bước từng bước thật nhỏ đang khi trên đầu, mây u ám vẫn cứ giăng mắc và dưới chân, thử thách, chướng ngại vẫn luôn rập rình. Phải chăng, Thiên Chúa để vậy hầu chúng ta chỉ biết hoàn toàn cậy trông và phó thác vào một mình Ngài, Đấng như một con đường mà ai đi trên đó, phải vừa cất bước phải vừa khám phá.

Với thánh vịnh 50, chúng ta có thể cầu nguyện. Lạy Chúa, con sinh ra trong đống tội, mẹ con đã hoài thai con trong tội. Con đui chột, mù lòa chệnh choạng, mắc phải đủ thứ hội chứng; hôm nay, xin cũng chữa lành con, cho con đầy lòng tin để thấy tình yêu Chúa đang ngời sáng trong thế giới u minh này; cho con đầy lòng cậy để thấy Chúa trong anh chị em, nhất là những anh chị em tưởng chừng như họ là con cái của sự tối tăm; cho con đầy lòng mến để con can đảm chỗi dậy sau đêm dài u mê hầu bước đi trên con đường Chúa đi, Amen.

 

34. Kể cả người mù cũng thấy – Charles E. Miller.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)

Nhìn thấy là một khả năng tuyệt diệu. Một đứa trẻ được giải thoát khỏi bóng tối, nơi thế giới nhỏ xíu của nó trong dạ mẹ, đã chăm chú nhìn vào mảnh đất huy hoàng. Cậu bé sẽ nhìn vào gương mặt mà một ngày kia sẽ nhận biết là người cha, người mẹ của cậu, hai người đã cho cậu sự sống, nuôi dưỡng và yêu thương cậu.

Qua ánh nhìn chúng ta ý thức hơn với thế giới ở chung quanh chúng ta. Chúng ta có thể thấy những thực tại ngoài chúng ta. Chúng ta dùng động từ “thấy” không chỉ để chỉ sức mạnh của việc nhìn xem, mà còn diễn tả một sự nhận thức là một công việc của tâm trí. Khi một người nào yêu cầu chúng ta một điều gì, chúng ta hiểu cái quan điểm mà người đó muốn thực hiện và chúng ta trả lời bằng cách “chúng tôi hiểu điều gì mà anh muốn nói”. Người ăn xin mù trong bài Phúc Âm ngày hôm nay đã giới thiệu với chúng ta và giống như ông ta, chúng ta cũng không thể thấy được những sự thiêng liêng và điều đó phát xuất từ đặc ân đức tin. Qua phép rửa chúng ta được nhận lãnh sự thông dự vào sự giàu có phong phú và qua đức tin chúng ta được vui hưởng những đặc ân của việc nhìn thấy.

Bây giờ, chúng ta nhìn ra thế giới chung quanh chúng ta và nhìn xem nó với những ý nghĩa thật sự của nó. Chúng ta có thể nghe những người bi quan nhìn một cái ly và nhìn xem nó như là một nửa của sự trống rỗng và những người lạc quan thì nhìn cùng cái ly đó và thấy đó như là một nửa đã đầy. Một con người đức tin nhìn cái ly nước đó và nói: “Cám ơn Chúa”. Con người hiểu biết nước là một đặc ân lớn lao của Thiên Chúa, đặc ân này không chỉ là cần thiết để duy trì sự sống của con người, nhưng còn có nghĩa là Thiên Chúa cho chúng ta thông dự vào đời sống của Người qua phép rửa.

Chúng ta có thể thấy cha mẹ của chúng ta với tình yêu sâu xa dành cho đứa con, khi đứa trẻ nhìn vào gương mặt của cha mẹ nó. Xuyên qua đức tin chúng ta có thể nhìn thấy tình phụ tử đã giới thiệu chân lý là tất cả mọi sự trong đời sống đến với chúng ta đều phát xuất từ Thiên Chúa Cha. Chúng ta có thể thấy những đứa trẻ thật đáng yêu bởi vẻ đẹp và sự đơn sơ của chúng. Đức tin dẫn chúng ta xuyên thấu những đứa trẻ để thấy chân lý này. Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta là những đứa con quý giá của Người trong Đức Kitô.

Sau khi đã chữa lành người đàn ông mù, Người nói với ông: “Hãy về nhà”, người đàn ông đã nhìn chăm chú vào Chúa một lúc và tự nghĩ: “Tôi sẽ đi đâu chứ, nếu không phải là nơi mà Chúa dẫn tôi đi”. Thánh Marcô tiếp đó đã nói với chúng ta: “Ông ta đã nhìn và lên đường đi theo Chúa Giêsu”. Nhưng chúng ta không biết những gì ông ta đã hiểu. Có phải ông ta theo Chúa Giêsu trên con đường dẫn tới Giêrusalem nơi mà Chúa Giêsu chịu đóng đinh? Có phải ông ta đã trung thành đứng dưới chân thập giá với Mẹ Maria, với những người đàn bà khác hoặc với môn đệ Chúa yêu không? Thánh Marcô đã không nói với chúng ta những điều đó. Có lẽ thánh nhân muốn cho chúng ta thấy rằng chính chúng ta trong con người của người đàn ông đó đã bị mù, và để trả lời những câu hỏi bằng cách chúng ta sống.

Trong mỗi Thánh Lễ, chúng ta theo Đức Kitô tiến lên đồi Calvariô vì trong Thánh Lễ chúng ta ý thức mình đứng dưới chân thánh giá, thông dự vào hy tế của Đức Kitô. Thánh Lễ là một lời mời gọi chúng ta dâng hiến chính mình với Đức Kitô, tư tế tối cao của chúng ta, cho Cha trên trời để nài xin cho chúng ta được sống xứng đáng với đức tin Kitô giáo và chúng ta được trung thành và trung tín với Đức Kitô của Người cho đến chết.

Ngày hôm nay chúng ta có thể hỏi: “Chúng con sẽ đi đâu và chúng con sẽ nhìn vào ai?” Chúng ta có thể từ bỏ Đức Kitô, Đấng đã ban cho chúng ta đặc ân đức tin, Đấng đã làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và là Đấng đã hứa cho chúng ta sự sống đời đời thế nào được? Khi chúng ta đạt được Nước Trời, chúng ta sẽ vui hưởng cái nhìn ân phúc của Thiên Chúa. Đức tin chuyển đổi ánh nhìn và chúng ta sẽ nói: “Bây giờ tôi đã thấy ý nghĩa của tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta”.

 

35. Suy niệm của Lm. Nguyễn Thái

“Con muốn Ta làm gì cho con?” “Lạy Thầy xin cho con được thấy”.

Một linh mục bạn của tôi bị bệnh ung thư. Trong thời gian điều trị bệnh bằng hóa chất (chemotherapy), ngài bị mất khẩu vị. Vì muốn ăn để có sức đề kháng chống lại bệnh, ngài thường nghĩ tưởng về các món ăn hầu gia tăng khẩu vị đã bị tê liệt do hóa chất gây ra. Sau khi xuất viện, ngài ngồi nghĩ về món gà luộc chấm muối chanh, và quyết định ra siêu thị mua gà về ăn. Ngài luộc tất cả 3 con gà đã mua với ý nghĩ lạc quan và vui vẻ rằng sẽ ăn được càng nhiều càng tốt. Sau khi dọn gà lên bàn, ngài chỉ ăn được có một cái đùi gà mà thôi, rồi ngồn nhìn 3 con gà luộc phì cười mà nói: “Con gà trong đầu mình sao nó ngon thế, còn những con này sao nó giống vỏ cây trộn với nước sình!”

Đa số chúng ta đã từng kinh nghiệm, ở một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta muốn có ngay một cái gì hay một điều gì và thưởng thức liền. Chúng ta sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự để có nó, Nhưng khi được rồi, chúng ta lại bị mắc cạn trong chính những ước muốn của mình, không thỏa mãn, ngong ngóng kiếm tìm cái khác và sau cùng bị rơi vào một tâm trạng trống rỗng! (Rm 13:14; Gl 5:16).

Để không trở thành nô lệ cho lòng ham muốn của mình, chúng ta nên tự hỏi cái mình muốn có phải là ý muốn của Thiên Chúa (1TX 4:3), là Đấng đã hứa rằng khi chúng ta cầu nguyện nhân danh Ngài, Ngài sẽ nhận lời chúng ta không? Và trong bài Phúc âm hôm nay, Mc. 10:46-52, Chúa Giêsu đã làm điều này. Ngài nghe lời thỉnh cầu của người mù: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương con” (10:48). Nhưng trước khi đáp lại ước nguyện của anh, Chúa Giêsu đặt cho anh một câu hỏi: “Con muốn Ta làm gì cho con?” (10:51). Tại sao Ngài lại hỏi câu hỏi này?

Câu hỏi này nghe giống như câu hỏi của linh mục hỏi cha mẹ mang con cái đến xin chịu phép rửa tội: “Ông bà hay Anh chị xin Hội thánh cho cháu điều gì?”

Theo linh mục Eugene Laverdiere, câu chuyện phúc âm hôm nay là đoạn kết luận của một phần khá dài và quan trọng trong phúc âm của Máccô, từ chương 8:22 đến chương 10:52. Chúa Giêsu nói ám chỉ về cuộc thương khó và phục sinh của Ngài, cũng như của những ai muốn bước theo ngài. Phần thứ nhất (8:31-9:29): sự hy sinh phải có cho những ai muốn làm môn đệ ngài. “Ai muốn theo ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (8:34). Phần thứ hai (9:30-10:31): liên hệ đến sự phục vụ trong cộng đoàn. “Ai muốn là người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (9:34). Phần thứ ba (10:32-46): những đức tính để lãnh đạo trong cộng đoàn Kitô giáo. “Các con có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (10:38).

Kết hợp ba phần lại với nhau sẽ trình bày những đòi hỏi cần thiết cho những ai muốn đáp lại lời Chúa kêu mời để tạo thành người Kitô Hữu và được thanh tẩy trong phép Rửa tội. Câu chuyện anh mù Bartimê được Chúa Giêsu chữa lành có hai phần: anh mù đã được Chúa gọi như thé nào và anh đã đáp lại ra sao. Đây là câu chuyện của ơn kêu gọi để trở nên một người Kitô hữu. Câu chuyện của Phép Rửa Tội.

Theo Chúa Giêsu là chấp nhận thử thách. Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem bước vào cuộc thương khó và sống lại. Anh mù ngồi ăn xin ở vệ đường. Nghe danh tiếng đồn thổi về Chúa Giêsu, anh la to: “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương con” (10:48). Chúa Giêsu đã gọi anh lại.Anh vứt bỏ áo choàng, đứng dậy, đến với Chúa. Anh đã xin được nhìn thấy và đi theo Ngài cùng với các môn đệ trên đường lên Giêrusalem.

Anh mù được nhắc rõ tên là Bartimê, con ông Timê. Theo các nhà chú giải thánh kinh, đây là chỗ duy nhất rong Phúc âm nhất lãm – Maccô, Mathêu , và Luca – nhắc đến tên người được chữa lành. Sự nhấn mạnh bất thường đến tên người được chữa lành này ắt phải có một ý nghĩa.

Trong ngôn ngữ cổ của các sắc dân ở vùng ĐịaTrung Hải, một tên gọi không phải chỉ là một nhãn hiệu để nhận dạng một người, nhưng còn diễ tả cái nhân cách hay số mệnh cuả người đó. Theo tiếng Aramaic, Do Thái cổ, “Bartimaeus”, Bartimê có nghĩa là “người con trai, hay người ô uế.” Đây người ăn xin bị mù. Quan niện bình dân của người Do Thái cho rằng mù là một hình phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi hay sự ô uế (Ga 9:34).

Nhưng theo tiếng Hy Lạp, “Bartimaeus” cũng có thể hiểu là “người con trai, hay người vinh dự”. Nó chỉ cái bản chất và số phận nội tâm của một người. Với một tên mang hai ý nghĩa, Máccô có lẽ muốn nói với chúng ta rằng đây là một con người đáng được vinh danh nhưng đang sống trong một tình trạng bất hạnh. Và điều mà Chúa Giêsu đã làm cho anh, không phải chỉ là phục hồi cái nhìn thể lý, nhưng trên hết mọi sự, Ngài phục hồi cái phẩm giá và số phận đời đời của anh. Đây chính là ý nghĩa lời cầu xin của anh: “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” (10:51).

Thật vậy, khi cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu gần tiến tới giai đoạn cuối cùng rồi mà các môn đệ vẫn chưa nhận ra sứ mạng của ngài là gì. Phêrô, các môn đệ và dân chúng giống như những người mù, có mắt để nhìn nhưng vẫn không thấy (8:18). Họ cần phải được chữa khỏi sự mù lòa tinh thần, để nhìn ra giá trị của ơn cứu rỗi qua cuộc thương khó và sống lại của Chúa Giêsu.

Bà Helen Keler, một người mùa, câm và điếc, rất nổi tiếng với đời sống đức tin gương mẫu và mạnh mẽ, nhân ngày ra trường tốt nghiệp đại học đã nói: “Thà bị mù và nhìn bằng con tim còn hơn là có hai con mắt và chẳng nhìn thấy sự gì cả.”

Nghe tiếng Chúa Giêsu kêu gọi, anh mù Bartimê đã vứt bỏ áo choàng, đếng dậy, đến với Chúa. Trong phúc âm của Maccô (1:6) cũng như trong nhiều văn hóa áo choàng được kết hợp mật thiết với tư cách của một con người. Nó giống như tấm thẻ căn cước giúp nhận rạng ra một người là ai. Để bước theo Chúa Giêsu, Bartimê đã phải cở bỏ chiếc áo cũ, biểu tượng của con người cũ, cách sống cũ.

Từ thời giáo hội sơ khai, mặc chiếc áo mới trong nghi thức Rửa tội đóng một vai trò biểu tượng rất quan trọng đối với người Kitô Hữu. Theo sách Giáo Lý Công giáo, số 1243: “Y phục trắng tượng trưng cho sự người lãnh nhận phép Rửa tội ‘đã mặc lấy Chúa Kitô’” (Gl 3:27).

Chiếc áo trắng diễn tả một sự thay đổi sâu xa trên ba bình diện: Xét về hữu thể học hay nhân chủng học, sự thay đổi được diễn tả qua sự chết và sống lại, sinh ra và tái sinh. Xét về tâm lý, sự thay đổi được diễn tả qua những hình ảnh của ngày và đêm, bóng tối và ánh sáng. Xét về luân lý, nó diễn tả một sự biến đổi trong cách sống đạo đức và thánh thiện, trong lời nói, tư tưởng và hành động. Ở cả ba bình diện, phép Rửa Tội đưa một người từ bên này sang bờ bên kia, từ sự mù lòa của đêm tối tội lỗi qua ánh sáng của sự sống con cái Thiên Chúa (GLCG #1213, 1265).

Trong ý nghĩa này, chúng ta sẽ hiểu tại sao Chúa Giêsu lại hỏi: “Con muốn Ta làm gì cho con?” (10:51). Như chúng ta biết, người mù là người đi xin ăn để sống. Sự mù lòa là lý do duy nhất để anh kiếm tiền. Hiển nhiên là người mù ngồi bên vệ đường để xin tiền. Có người mù nào lại ngồi xin khách qua đường cho được nhìn thấy không? Nếu có thì ắt hẳn người đó phải mang một ý muốn phi thường, một quyết tâm lớn lao, một ước muốn mà ít có người mù nào dám mơ ước, vì nó đã vượt ra ngoài khả năng của con người. Một ước muốn dựa trên niềm tin vào một Đấng Tối Cao. Do đó, khi Chúa Giêsu hỏi anh, câu hỏi của Ngài đã hàm ý: Anh có muốn tiền không? Hay là muốn được nhìn thấy? Anh có muốn mất tất cả mọi sự trong đời để chỉ lấy một điều tốt lành thôi không? Anh có muốn nhẩy vào một thế giới mà anh không biết, nhưng lại là thế giới tốt hơn không? (Pl 1:23).

Có lần tôi vào thăm một trại cùi. Trước khi đến trại phải qua một khu phố chợ đông đức và kẹt xe, vì những người buôn bán và ăn xin lấn chiếm lòng đường. Nhìn thấy những người cùi ngồi ăn xin trên đường, tay chân băng bó với những vết máu đỏ, ruồi nhặng bu quanh thật ghe tởm, tôi quay sang hỏi một nhân viên làm việc trong bệnh viện cùi: “Bệnh cùi bây giờ đã chữa được chưa?” Anh cho biết với ngành y họchiện nay, bệnh viện đã có đủ thuốc chặn đứng được bệnh cùi rồi, nghĩa là bệnh cùi có thể chữa được. Nhưng còn bệnh cùi tinh thần thì vãn chưa “khắc phục” được. Có nhiều người cùi tuy đã đượckhỏi bệnh rồi, nhưng vẫn nguỵ trang bệnh cùi bằng cách băng bó tay chân, lấy cá chết thối giã ra đắp lên cho ruồi nhặng bu lại, lấy thuốc đỏ bôi vào… để xin tiền! Xin tiền bằng bệnh cùi đã trở nên một nghề nghiệp để sống, mặc dù đã khỏi bệnh nhưng vẫn không muốn vượt thoát ra khỏi cái lợi lộc vật chất do bệnh cùi mang lại. Họ bị bênh cùi tinh thần!

Anh mù Bartimê này thất khác thường! Anh không muốn tiền! Lời cầu xin của anh lại chẳng vĩ đại hơn lời thỉnh cầu của Giacôbê và Gioan, hai môn đệ đã muốn xin Chúa cho một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả trong vinh quang của Ngài hay sao? (Mc 10:35-45). Anh lại không tốt hơn chàng thanh niên giàu có đến hỏi Chúa phải làm gì để được sống đời đời và sua cùng htì buồn bã bỏ đi vì ham mên của cải trần gian sao? (Mc 10:17-22).

Hôm nay nếu Chúa hỏi chúng ta: con muốn gì? Một cách thành thật chúng ta sẽ trả lời ra sao? Giống như Giacôbê và Gioan, con muốn ngời bên hữu, bên tả, chỗ quyền lực tối cao trên thế giới này? Giống như người thanh niên giàu có, con cũng muốn giữ lại của cải trần gian? Con muốn xin những sự mà trong đời con chưa bao giờ thực hiện được? Con muốn có những cái mà con chưa bao giờ có?…

“Con muốn Ta làm gì cho con?” Đây chính là câu hỏi phải suy nghĩ. Khi cầu nguyện: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” chúng ta nghĩ rằng lời cầu nguyện đó chỉ là một điểm nhỏ trong lời cầu nguyện của chúng ta, hay đó chính là lời cầu nguyện của cõi lòng ta? Thiên Chúa không phải là ông Già Noel – Santa Claus thích cho quà. Thiên Chúa không muốn chúng ta chỉ vui vẻ mà thôi, nhưng ngài muốn chúng ta nên thánh (Dt 12:14). Tất cả những gì Ngài ban cho chúng ta hay từ chối đều nhắm vào mục đích tối thượng này.

Chúng ta cứ tiếp tục cầu xin Chúa, nhưng không thể xem Chúa như “cái thẻ rút tiền ATM” – a divine ATM. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta, và muốn ban cho chúng ta nhiều hơn là lòng chúng ta mong ước.

“Con muốn Ta làm gì cho con”? Một Thiên Chúa đầy hồng ân đang chờ đợi câu trả lời của chúng ta mỗi ngày.

 

36. Suy niệm của Achille Degeest.

ĐỨC KITÔ KHÔNG CHỮA KHỎI MỌI TẬT BỆNH, NGƯỜI CHỮA KHỎI MỘT KẺ TẬT NGUYỀN.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).

Giêricô ở phía đông Giêrusalem, không xa sông Hòa Giang bao nhiêu và hưởng một khí hậu nóng. Mặt khác, nhờ có những công trình thủy lợi tốt, nên mùa xuân ở đây thật đẹp, hoa lá tốt tươi. Chúa rời thành phố đi về Giêrusalem. Đám đông có lẽ gồm những kẻ rỗi rãi từ các nơi về đây tránh rét, xúm lại theo vị Thày được mọi người nói đến. Lúc đó một người ăn xin mù kêu lớn về phía Chúa. Thánh chép sử Marco cho ta biết người ấy tên là Bartimê, con ông Timê, có lẽ sau này trở thành Kitô hữu và được cộng đồng giáo hữu quen biết.

Người mù kêu lớn, gọi Chúa là Con Đavít. Có lẽ người ấy bộc lộ qua tiếng gọi đó, một dư luận mà đám đông chỉ ngấm ngầm cảm thấy mà không nói ra, dư luận rằng: Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Người ta không muốn cho người mù làm rộng, họ muốn bịt miệng người ấy, trước hết vì lẽ những tiếng kiêu của anh làm họ khó chịu, lẽ thứ hai là có thể danh xưng anh dùng để kêu gọi Chúa dễ gây nhiều rắc rối. Phần anh chỉ biết ao ước được chữa khỏi, anh chẳng ngại gì nói lên lòng tin (hay bước đầu tin) của mình. Chúa chữa anh khỏi, chúng ta ghi lại hai điều:

1) Dừng lại, Chúa Giêsu nói: gọi người ấy đến.

Người ta có thể nghĩ rằng Chúa sai các môn đệ gọi. Ta để ý ba giai đoạn trong quá trình đầu của sự việc người mù gặp Chúa. Biết Chúa ở đó, anh kêu lên để gọi Chúa. Đó là tiếng con người kêu lên với Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu sai môn đệ chuyền đạt lời gọi của Người. Đức Kitô nói với nhân loại qua trung gian Giáo Hội của Người. Như vậy, giáo hội ngày nay là ai? Là chúng ta. Hai câu hỏi: chúng ta có quan tâm đừng bao giờ làm cái đập ngăn chận những tiếng kêu của người nghèo, họ la lớn về một phía Đấng họ cảm thấy không xa họ, tuy không nhìn thấy Người? Chúng ta có lo lắng kêu gọi người nghèo, người bệnh, người tội lỗi và dẫn họ đến với Đấng cứu chuộc duy nhất là Đức Giêsu Kitô không? Lời Đức Kitô kêu gọi thế giới vang dội xuyên qua Giáo Hội. Mối bận tâm của chúng ta phải hướng về đâu. Phải chăng chúng ta chỉ lo tranh luận dai dẳng về bản chất Giáo Hội và sự điều hành “định chế”? Giả sử số đông Kitô hữu, gồm cả cấp hữu trách trong Giáo Hội, có mối quan tâm hàng đầu là làm môn đệ Đức Kitô sống động và kêu gọi người ta đến gặp Chúa. Nếu vậy, những Kitô hữu ấy có bị tràn ngập dưới những vấn đề không? Về điểm này, hiến chế Ánh sáng muôn dân của Công đồng Vaticanô II, soi sáng chúng ta.

2) ‘Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?

Câu hỏi của Chúa có thể bị xem là một câu hỏi dị thường. Chúa biết rất rõ người mù chờ đợi sự gì ở Chúa, anh chờ Chúa chữa anh được sáng mắt. Kẻ tật nguyền đó đã kêu lên xin Người thương xót. Phía sau tiếng kêu của anh, là niềm cậy trông vào một quyền lực siêu phàm có thể chữa được anh. Chúa muốn anh đối thoại với Người. Chúa muốn thử nghiệm một lòng tin phôi phai và hướng dẫn lòng tin ấy đi quá hy vọng một sự chữa lành tức thì, để tiến đến mọi sự liên hệ trực tiếp với Chúa. Kẻ mù, với tư thế một con người, trả lời Đức Giêsu như thể trả lời Đấng Cứu Thế. Chúa không chữa khỏi một tật bệnh, Chúa chữa khỏi một kẻ tật nguyền trong tâm hồn kẻ ấy, ơn thiên phú của đức tin đã vào sâu và được nghênh đón. Hãy đi lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi. Người ấy có thể trở nên một trong những môn đệ trung kiên đã gắn bó theo Chúa không? Có lẽ là thế. Một điều đáng nhớ: Chúa Giêsu không chữa lành tội của tôi, Chúa chữa lành tôi, một kẻ tội lỗi, bởi vì tôi đã hiến dâng Chúa niềm tin của tôi.

 

37. Tin, thấy và đi theo

“Lạy Thầy xin cho con được thấy”

Các môn dệ và dân chúng gặp Chúa Giêsu, thấy Chúa Giêsu thường xuyên nhưng họ lại không nhận ra Chúa Giêsu là con vua Đavid, là Messia. Họ chỉ nhìn Chúa Giêsu bằng con mắt người thế, chỉ thấy hình dáng con người của Chúa Giêsu mà không tìm hiểu sâu hơn nữa, nên không nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế.

Có lẽ đang lúc đất nước bị đô hộ, người do thái chỉ nghĩ đến một ông vua Messia trần thế để thỏa mãn niềm tự hào dân tộc của họ chứ không nghĩ xa xôi về ơn trọng đại của Thiên Chúa sắp ban cho loài người: ơn cứu chuộc linh hồn, đem lại sự sống đời đời cho mọi người. Lý do chính khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế là vì họ nghĩ đến quyền lợi trần thế nhiều hơn lợi ích phần hồn, ưu tiên cho vật chất nhiều hơn tinh thần, bận tâm cho đời này hơn là đời sau.

Những người sáng mắt thể lý mãi lo nghĩ đến vấn đề vật chất, chức quyền nên khó nhận ra chương trình siêu việt của Thiên Chúa. Còn anh mù Bartimê nghe biết Chúa Giêsu bằng con mắt tâm hồn, anh đã tuyên xưng Chúa Giêsu bằng tước hiệu của Đấng Messia: Con vua Đavid. Cho dù nhiều người không muốn cho anh gặp gỡ Chúa Giêsu và nói lên lời tuyên xưng của mình nhưng anh vẫn la to: Lạy Con vua Đavid, xin thương xót tôi.

Chúa Giêsu ở giữa đám đông vây kín, nhưng Ngài vẫn nghe rõ tiếng của anh từ xa. Ngài truyền gọi anh đến. Anh tin tưởng hết lòng vào Chúa Giêsu nên vứt bỏ áo choàng là tài sản rất quan trọng của anh, bỏ vị trí quen thuộc của mình để đến với Chúa Giêsu. Anh đã được toại nguyện và đi theo làm môn đệ Chúa.

Anh mù Bartimê có lòng tin qua những lời người ta thuật lại cho anh về Chúa Giêsu. Anh được Chúa mở mắt và cho làm môn đệ. Còn chúng ta, chúng ta là những người sáng mắt, chúng ta có giống đám đông dân chúng: có mắt mà tâm hồn thiếu ánh sáng đức tin, không nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện bên mình, không biết rằng mình đang được diễm phúc nhìn ngắm, nghe những lời phán dạy trực tiếp từ Người và còn được sờ chạm vào Người nữa. Nếu như đôi mắt tâm hồn của họ mở thì họ đã không giết Chúa Giêsu. Nếu như đôi mắt đức tin của chúng ta mở thì chúng ta sẽ không bỏ lễ Chúa Nhật và rất ham đi lễ hằng ngày để được gặp Chúa, để lắng nghe Lời Người, để được ăn Thịt uống Máu Người trong Bí tích Thánh Thể, được rước Người vào lòng mình. Nếu đôi mắt tâm hồn chúng ta mở rộng thì chúng ta sẽ nhận ra mọi người là anh em, sẽ yêu thương tha nhân và sẵn sàng cứu giúp những người nghèo khổ xung quanh.

Ước gì chúng ta biết đến với Chúa để Chúa làm cho đôi mắt đức tin của chúng ta được sáng thêm, đời chúng ta gắn bó với Chúa hơn như anh mù Bartimê trong Tin mừng hôm nay. Như thế, mọi công việc chúng ta làm hàng ngày đều là làm với Chúa và vì Chúa. Đó là sự an ủi cho những khó nhọc hàng ngày của chúng ta, đó cũng là phần phúc của chúng ta đời này và đời sau.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn nhận ra tình thương và hồng ân Chúa trên chúng con để chúng con biết cảm tạ Chúa và hết lòng cậy trông vào ơn cứu độ của Ngài.

 

38. Mù dắt mù.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một người đi trong đêm tối, tay cầm chiếc lồng đèn. Một khách qua đường chặn ông lại và hỏi:

– Anh cầm chiếc lồng đèn để làm gì, bởi vì nghĩ cho cùng, anh mù mà!

– Để cho kẻ khác thấy tôi và không đụng vào tôi.

Người mù trả lời và tiếp tục đi. Một ngọn gió nhẹ thổi qua, rồi anh bị một người đi đường khác đụng mạnh té lăn trên đường. Người mù bực mạnh la lớn:

– Anh không nhìn thầy đèn của tôi sao?

– Nhưng thưa ông, chiếc đèn của ông bạn đã bị tắt rồi mà!

Anh bèn thắp lại đèn và tiếp tục đi. Lần này, anh giữ đèn cẩn thận để khỏi bị gió thổi tắt. Đi được một quãng anh lại bị đụng ngã. Anh liền phản ứng quyết liệt:

– Anh không thấy ngọn đèn của tôi cháy sáng hay sao?

– Xin lỗi ông, tội nghiệp cho tôi, vì tôi bị mù…

Thưa anh chị em,

Người mù đã làm hết cách, nhưng vẫn không thể làm sáng mình, anh vẫn lẩn quẩn trong thế giới mù loà. Chúng ta chỉ dựa vào mình, thì chúng ta cũng chỉ lẩn quẩn trong giới hạn của mình, ngay khi cả chúng ta tự hào về những văn minh tiến bộ, thì coi chừng đó cũng chỉ là anh mù cầm đèn sáng mà nghĩ rằng mình thấy đường. Chỉ có Chúa mới là Đấng mở mắt cho chúng ta được thấy.

Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng thật ra mình không thấy nhiều cái lắm “có mắt mà như mù”. Và mù trên tất cả là không thấy mình đang sống như người mù: sống mà không biết tại sao mình sống? Mình sống để làm gì? Cuộc sống này sẽ đi về đâu?…

Còn anh mù trong Tin Mừng hôm nay lại khác. Anh thấy nhiều cái mà người khác không thấy. Anh thấy Đức Giêsu là Con Vua Đavít, là Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô Cứu Thế. Anh thấy quyền năng của Đức Giêsu có thể giúp đỡ anh một cái gì khác hơn là vật chất, tiền bạc. Anh thấy tình trạng khốn khổ của mình. Vì thế, có một sự trái ngược, anh mù thấy được nhiều cái mà người sáng mắt không thấy. Và tiếng kêu của anh “Lạy Thầy, xin cho con được thấy” là một tiếng kêu của lòng tin. Lời cầu của anh được Đức Giêsu đáp ứng. “Lòng tin của anh cứu chữa anh”. Chúa Giêsu mời gọi anh không những đến với Ngài mà còn đi theo Ngài.

Mẹ Têrêsa Calcutta kể lại câu chuyện: Một người đàn ông phong cùi sống trơ trọi trong một túp lều tăm tối, xa tránh và hận thù mọi người, hận thù xã hội. Mẹ nói: “Ngày tôi đến thăm, người đàn ông ấy đã không bao giờ muốn ra khỏi túp lều tăm tối của mình. Tôi tiến lại gần con người ấy và đưa cánh tay mời mọc, nâng cánh tay của anh để anh đứng dậy, rồi cùng dìu anh bước ra khỏi túp lều tăm tối. Vừa đến bên cánh cửa nơi ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua, người đàn ông đã có một thái độ mà mãi mãi tôi không bao giờ có thể quên được: Ra khỏi căn lều, đứng giữa ánh sáng, anh hô lên một tiếng kêu lớn: “Tôi thấy!” Kể từ khi bóng tối của bệnh phong cùi ập phủ xuống trên cuộc đời, thì hôm nay thực sự là lần đầu tiên anh cảm nhận được có ánh sáng trong cuộc đời. Với tất cả sức lực còn lại, anh muốn thét lên với cây cỏ, với núi non, với thiên nhiên, với trời cao, với tất cả mọi người như sau: “Tôi thấy! Tôi thấy! Tôi thấy rồi!”.

Thưa anh chị em,

Có những người tự giam mình trong bóng tối, và có những người bị giam hãm vào bóng tối. Vô tình hay hữu ý, có lẽ chúng ta cũng đã xô đẩy không biết bao nhiêu người vào trong bóng tối. Nếu chúng ta không sống làm chứng tá cho Tin Mừng, chúng ta khước từ giúp đỡ người xấu số, đó có thể là hành động xô đẩy người khác vào bóng tối cô đơn của thất vọng, chúng ta cũng tự giam hãm mình vào bóng tối hay ít ra cũng giảm bớt ánh sáng nơi chúng ta.

Chúa Giêsu đã nói: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta. Người Kitô hữu chỉ là Kitô hữu khi họ là ánh sáng thế gian. Trong Kinh Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã cầu “xin cho các môn đệ Đức Kitô được toả sáng, nhờ biết yêu thương những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức”. Ánh sáng không còn khả năng chiếu sáng, ánh sáng ấy trở thành tăm tối. Hãy chiếu sáng bằng những việc làm của ánh sáng. Một cuộc sống đầy gương sáng, một lời nói nâng đỡ ủi an, một nụ cười thông cảm, một đường hướng đưa ra để đồng hành. Đó chính là những việc làm của ánh sáng mà những người chung quanh đang chờ đợi ở chúng ta và chúng ta cũng tin rằng một ánh lửa càng được chia sẻ thì càng được đốt sáng lên và tỏa lan.

“Lạy Chúa, xin cho con được thấy”.

Xin mở mắt con, để con biết nhìn ngắm những cảnh đẹp thiên nhiên, những kỳ công do tay Chúa tạo dựng trong vũ trụ, trời đất, vạn vật…

Xin mở mắt con, để con thấy những anh em nghèo đói, ốm đau, bệnh tật quanh con, để con biết yêu thương, nâng đỡ và chia sẻ.

Xin mở mắt con, để con thấy cái tốt nơi người khác, những việc tốt anh em đã làm cho con trong cuộc sống hàng ngày.

Xin cho con phản chiếu ánh sáng của Chúa trong cuộc đời con, vì Chúa là Sự Sáng, là Tình Yêu, là Chân Lý và là Sự Sống. Amen.

 

39. Nhìn cái tốt – Gm. Arthur Tonne.

Nàng là một phụ nữ không bao giờ có thể thấy được một điều gì tốt đẹp nơi người khác. Bất kể ai làm điều gì tốt, nàng cũng tìm ra được một điều sai. Một người nào đó làm một việc tốt, nàng vẫn có thể tìm ra một nguyên nhân xấu xa. Nàng ưa câu nói: “Nó phải có ẩn ý… Nó rút ra được gì trong đó”. Nàng bắt lỗi mọi người. Nhiều người chúng ta ít nhiều có tật xấu như nàng. Nàng bất thường, để lấy lại niềm tin, nàng ý thức rằng cái tật “bới bèo ra bọ” làm nàng sợ hãi. Nàng đến bác sĩ tâm thần, nhưng ông chẳng giúp nàng được bao nhiêu. Ngày kia, được nghe câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù bẩm sinh. Câu chuyện chúng ta vừa nghe thực sự thức tỉnh nàng: Nàng bị mù trước những cái tốt đẹp của người khác. Nàng can đảm nhìn sự thật và thay đổi nhãn quan với người khác.

Chúa Giêsu chữa người đui mù thể xác, để chứng tỏ rằng Người cũng có thể chữa bệnh đui mù thiêng liêng. Quả thật. Bệnh đui mù tinh thần và thiêng liêng còn tai hại hơn đui mù thể xác. Loại đui mù thiêng liêng này lây nhiễm người trong chúng ta. Mỗi người chúng ta phải tự hỏi: “Tôi có mù trước cái tốt của kẻ khác không?”. Nếu có, chúng ta kêu cầu Chúa Kitô chữa chúng ta như người đui mù trong bài Tin Mừng.

Nơi tốt nhất để bắt đầu sửa chữa là ngay trong gia đình. Vợ bạn quên đính nút áo sơ mi, thay vì nghĩ đến sự thiếu sót này, trước hết bạn hãy nghĩ đến những việc tốt nàng đã làm trong ngày đó cho bạn và cho gia đình: Nấu ăn, giặt giũ, lau chùi, săn sóc con cái… Chồng bạn quên đổ thùng rác, không sao đâu, bạn hãy nghĩ để chàng làm việc cả ngày cho bạn và các con.

Thanh niên nam, nữ: bạn cần nghĩ đến những việc tốt cha mẹ đã làm cho bạn, hơn là những lần các ngài không cho phép bạn hoặc muốn bạn ở nhà.

Tập nghĩ đến cái tốt người khác làm, thay vì nghĩ đến lầm lỗi của họ, như trong trường giữa thầy và trò, như cha sở và giáo dân, như các thành phần của hiệp hội, công nhân trong công đoàn. Ông chủ của bạn không thể hoàn toàn xấu, người công nhân không thể hoàn toàn vô dụng. Mở mắt ra để thấy cái tốt của người khác, nghĩ tới nó và nói về nó.

Nhìn cái tốt nơi người khác là một cách để yêu người. Tình yêu không tiêu cực. Tôi không thể yêu một ai bằng cách nói: “Tôi sẽ không bao giờ nghĩ tàn nhẫn về bạn, hoặc nói tàn nhẫn cho bạn”. Đó không phải là tình yêu. Tình yêu phải tích cực: “Tôi sẽ bỏ cách thức của tôi, tôi sẽ cố gắng đặc biệt để nghĩ, nói và hành động tử tế với bạn”. Hoa trái lớn của việc tìm cái hay cái tốt trong người khác là cảm giác hài lòng và hân hoan. Và chúng ta còn giữ được giới răn của Chúa Kitô bảo ta đừng xét đoán.

Để nhìn thấy cái tốt cái hay của người khác, chúng ta cần sức mạnh thiêng liêng, một thứ phép lạ. Chúa Kitô sẽ làm phép lạ cho bạn nếu bạn xin Người.

Xin Chúa chúc lành bạn.

 

40. Suy niệm của Anmai, CSsR

XIN MỞ CHO CON ĐÔI MẮT THẤY TÌNH YÊU KỲ DIỆU CỦA CHÚA KHẮP NƠI

Ngày còn bé, thi thoảng Mẹ và Dì dẫn lên Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Cũng thi thoảng được nghe những sáng tác của Cha Thành Tâm. Một bài hát đã đi vào lòng của mình tự bao giờ chẳng hiểu. Chắc có lẽ nhịp điệu bài hát ấy nó hơi sôi động và dễ hát nên dễ nhập tâm:

“Lạy Chúa xin mở mắt tôi biết nhìn kỳ công của Ngài

Trời xanh tinh tú long lanh, mây ngàn cùng muôn muôn thú

Đồi kia! Ai đắp nên cao, sóng trào đại dương mênh mông.

Biết rằng: Ngài đã thương tôi thế mà tôi đâu có hay.

Ephata hãy mở! Mở ra! Ephata! Hãy mở ra! Ephata”.

Giờ lớn lên một chút, thi thoảng nghe lại bài hát này thấy vẫn còn hay vì lẽ lời cầu nguyện của bài hát này hết sức mộc mạc và cũng hết sức dễ thương: Lạy Chúa xin mở mắt con!

Vâng! Nhiều lúc mình có mắt nhưng mắt có chịu thấy đâu để rồi cũng phải xin Chúa mở ra để nhìn thấy kỳ công của Chúa đang thực hiện trên cuộc đời này. Cứ chịu khó xin đi, Chúa sẽ nhận lời nguyện xin của mỗi người chúng ta như Chúa chữa anh chàng mù thành Giêricô hôm nay trong tin mừng Máccô vậy.

Trang tin mừng về việc Chúa Giêsu chữa anh chàng mù thành Giêricô được phác hoạ như là một tiền dẫn để chuẩn bị cuộc tiến vào Giêrusalem chịu khổ hình thập giá của Chúa Giêsu.

Thánh Maccô đã khéo lép sắp xếp cách hành văn để tạo nên một sự song chiếu với trình thuật chữa người mù Betsaiđa (Mc 8, 22-26). Vì chưng câu chuyện chữa người mù thành Betsaiđa cũng đã là một thứ tiền khúc cho cuộc tuyên xưng đức tin của Phêrô (Mc 8, 27-33)

Nói cách khác, phép lạ chữa người mù Betsaiđa cũng như phép lạ chữa người mù Giêricô được Thánh Maccô trình bày như những trình thuật chuyển mạch đưa dẫn tới sự tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Đấng Thiên sai cứu độ.

Và họ đến Giêricô. Lúc Người ra khỏi Giêricô cùng với môn đệ và dân chúng đông lắm, thì có con của Timê là Bartimê, một người ngồi ăn xin dọc đường. Nghe nói là Chúa Giêsu Nadarét đó, thì hắn lên tiếng kêu rằng: Giêsu con Đavit, xin thương xót tôi. Nhiều người quát bảo hắn im, nhưng hắn càng kêu hơn nữa: Lạy con Đavit xin thương xót tôi (c. 46-48).

Giêricô vốn là một thành cổ xưa nhất của Palestina, nằm cách Biển Chết khoảng 10 km về phía Bắc, cách Giêrusalem chừng 30 km về phía Đông Bắc. Trong Tin Mừng Maccô, đây là nơi dừng chân sau cùng của Chúa Giêsu trước khi tiến vào Giêrusalem. Cũng chính ở đây, Chúa Giêsu chữa lành cho Bartimê, một kẻ ăn xin mù lòa.

Một người mù ăn xin: Trong bối cảnh thời đại ở Đông Phương lúc ấy, bệnh mù mắt được coi như thứ bệnh vô phương cứu chữa và số phận của nạn nhân thường rất bi đát. Đa phần trong họ không có cách kiếm sống nào khác ngoài việc đi ăn xin (x. Ga 9,8). Bởi thế, một cách nào đó, bệnh tật này gợi nhớ nỗi khốn cùng tuyệt vọng của kiếp người.

Trở lại câu chuyện Tin Mừng, người mù này là con của Timê. Tên gọi Bartimê là một ngữ vựng Aram ngữ có ý nghĩa y hệt (Bar = con; Bartimê = con của Timê). Thánh Maccô vẫn có thói quen lấy lại nguyên ngữ Aram. Chi tiết này cũng là bằng chứng cho thấy thánh ký có lấy nguồn tài liệu từ một truyền thống Aram ngữ.

Người mù đó ngồi ăn xin ở vệ đường và khi nghe biết Chúa Giêsu Nadarét đi qua, anh đã lớn tiếng khẩn cầu sự trợ giúp của Người: “Giêsu con Đavit, xin thương xót tôi”. Và khi mọi người quát bảo anh ta im, anh ta lại càng kêu xin lớn nữa: Lạy Con Đavit, xin thương xót tôi (x. c. 47.48).

Trong truyền thống Do Thái, tên gọi Con Đavit là một tước hiệu bình dân gán cho Đấng Thiên sai.

Người mù ăn xin đó đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai, vốn được dân Do Thái chờ mong. Anh ta đã khẳng khái tỏ bày sự tin tưởng vào Người, bất chấp sự cản trở của dân chúng.

Cách miêu tả của thánh ký gợi lên sự kiện này: dân chúng háo hức tháp tùng Chúa Giêsu, song họ không có một đức tin chân thực, họ mù quáng về sứ mệnh Thiên sai của Người. Đang khi đó, một kẻ mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường lại đặt tin thác vào Người con Đavit, tức là Đấng Thiên sai được đợi trông. Chắc hẳn lòng tin tưởng đó của anh còn cần phải được soi sáng hơn, y như trường hợp người phụ nữ băng huyết đã được chữa lành và tin tưởng vào Người. Tuy nhiên, có điều chác chắn là người mù đã tin vào sự vĩ đại cũng như quyền lực của nhân vật mà anh ta van xin. Anh ta biết rằng, ít ra chính Thiên Chúa đã ban cho anh cơ hội gặp gỡ Chúa Giêsu. Bởi thế, anh đã không nản lòng van xin sự trợ giúp. Dù biết rằng Chúa Giêsu là người quê ở Nadaret (x. c 47a Giêsu Nadaret), anh ta đã không dừng lại ở gốc gác lý lịch, nhưng đã tỏ bày sự tín nhiệm không do dự: Giêsu con Đavit xin thương xót tôi.

Trong nhãn quan thần học Maccô, người mù ăn xin này nói lên mẫu gương tuyệt vời của một môn đệ dứt khoát chọn theo Chúa Giêsu trên con đường tiến về Giêrusalem, tức con đường khổ nạn.

Đứng dậy, Chúa Giêsu nói: gọi người ấy… Hắn vứt áo choàng một bên, nhảy chồm dậy và đến cùng Chúa Giêsu. Người lên tiếng nói vói hắn: Ngươi muốn ta làm gì cho ngươi? Người mù đáp lại: Rabbuni, xin cho tôi được thấy. Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy đi, lòng tin của ngươi đã cứu ngươi. Và lập tức hắn đã thấy được mà theo Người lên đường (c. 49-52).

Khác với nhiều lần trước, lần này Chúa Giêsu không khước từ danh xưng Thiên sai gán cho Người. Người để cho kẻ mù ăn xin lớn tiếng tuyên xưng Người là Con Đavit. Thêm một lần nữa chúng ta phải bắt nhận ra được ý nhắm thần học ở đây trong liên hệ với thần học về Bí mật Thiên sai của thánh ký Maccô. Tại sao Chúa Giêsu không còn căn dặn im lặng hay bó buộc im tiếng? Độc giả Maccô sẽ không quên rằng Chúa Giêsu đang đi trên đường tiến về Giêrusalem mà Giêricô là trạm chót sắp vượt qua. Người đang trên đường gần kề cuộc khổ nạn thập giá: ý định của Thiên Chúa về công cuộc cứu độ sắp hoàn thành. Bởi vậy không còn lý do gì để giữ mãi những màn che Bí mật Thiên sai: tất cả sắp được tỏ lộ một cách thanh thiên bạch nhật. Đành rằng khó lòng mà tránh được mọi hiểu lầm về một Đấng Thiên Sai chính trị và và trần tục như sau này Người sẽ bị kết án như thế. Song le, không có cản trở nào làm đổ vỡ được hoạch định của Thiên Chúa. Theo ý định của Thiên Chúa cái chết của Người sẽ là con đường dẫn tới ơn cứu độ cho nhân loại. Người thực sự là Đấng Thiên Sai cứu độ, dù rằng khác với cách mơ ước trần tục ích kỷ của người Do Thái.

Người đến đem ơn cứu độ cho tất cả ai đón nhận, mà việc chữa lành người mù ăn xin là một dấu chỉ: dấu chỉ của đức tin cứu độ.

Chính vì thế, Người đã nói với nạn nhân: Đức tin của ngươi đã cứu người. Gợi nhắc sự việc y hệt Người đã chữa cho phụ nữ băng huyết khi bà bị bệnh (Mc 5,34) Và kẻ được chữa lành đã lên đường theo Người (c. 52b). Đó cũng là sứ điệp ngõ cho những ai chọn theo Người. Như đức tin vào Chúa Giêsu đã chữa lành người mù, cũng thế đức tin đưa dẫn kẻ tin Người biết chọn theo Người trên con đường khổ nạn để có được ơn cứu rỗi đích thực nơi mầu nhiệm phục sinh này.

Vấn đề ở chỗ mù là mù đức tin. Cuộc đời của khá nhiều người, mắt vẫn sáng ấy nhưng không nhìn thấy được đức tin và đức tin cũng chẳng thể nhìn bằng con mắt thường nhưng nhìn bởi con mắt của lòng tin, của sự tín thác vào Thiên Chúa. Anh chàng mù hôm nay dù đã bị ngăn cản nhưng anh đã vượt qua cái ngăn cản của con người để đến với Chúa và anh ta đã được toại nguyện.

Chúng ta, có thể được sáng mắt, không cần Chúa chữa cho mình được sáng về thể xác như anh mù nhưng có thể chúng ta bị khuyết tật, bị khiếm khuyết chút gì đó trong con mắt tâm hồn, con mắt đức tin. Và vì vậy, chúng ta nên chăng cũng bắt chước anh chàng mù để xin Chúa chữa con mắt tật bệnh của chúng ta. Lời nguyện trong Thánh Thi kinh sách thứ Năm tuần II thật hay:

Ôi lạy Chúa, xin mở cho con đôi mắt

Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi.

Con mù loà bên vệ đường hành khất,

Xin chữa con để con nhìn thấy mặt Ngài.

Lạy Chúa Giêsu – con vua Đavít, xin chữa cho con để con nhận thấy tình yêu của Chúa thật kỳ diệu xiết bao và đặc biệt là kỳ diệu với riêng mảng đời của con. Chúa đã thương ban cho con qúa nhiều ơn lành nhưng hình như con cứ như mù loà để không nhận ra những ơn ấy. Lạy Chúa, xin mở mắt con.

 

41. Đức tin của con đã cứu con – Noel Quesson.

Năm 1945, tại nhà ga Verona bên Ý, dân chúng đang náo nức chờ các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc xã. Một người lính trẻ hai mắt đã bị hư, anh lần mò từng bước trên sân ga tiến về chỗ một bà già. Anh la lên: Mẹ! Và hai mẹ con ôm chầm lấy nhau, khóc nức nở. Bà mẹ xót xa nói: “Làm sao một người mù lòa như con mà vẫn về được với mẹ”. Người lính đáp: “Con không nhìn thấy mẹ bằng mắt, nhưng trái tim đã hướng dẫn con”.

Người mù thành Giêricô cũng đã đến với Chúa Giêsu bằng trái tim. Anh không được nhìn Chúa, nhưng niềm tin của anh đã dẫn anh đến với Người. Anh được nghe nhiều về Chúa, và lòng trí anh đã ghi nhớ đuợc một số điều căn bản. Vì thế, nghe xôn xao có Chúa đến gần, anh đã phát biểu niềm tin của mình bằng tiếng kêu lớn: “Lạy Đức Giêsu, con Vua Đavid, xin thương con”. Do thiện chí và do ơn trên soi sáng, anh mù đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi nghe người ta bảo: “Hãy vững tâm đứng dậy. Thầy gọi anh đó”. Anh vội vã liệng áo choàng, nhảy lên và chạy tới Chúa. Chúa chữa lành anh bằng một lời khen ngợi: “Đức tin của con đã cứu con”. Anh được khỏi bệnh và gia nhập vào đoàn ngũ những người theo Chúa.

Theo Thánh Marcô thì đây là phép lạ sau cùng Chúa thực hiện trước khi chịu thương khó. Dưới ngòi bút của Thánh Marcô, các môn đệ Chúa cho tới giờ chót vẫn như những người mù, sự kiện này làm Chúa rất bận tâm. Chúa đã ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn (Mc 8,31;9,31;10,34). Và nhiều lần nói về số phận các tín hữu muốn trung kiên với Chúa phải sẵn sàng hy sinh mạng sống (8,35), phải chọn địa vị rốt hèn (9,35), phải sẵn sàng móc mắt, chặt bỏ tay chân để khỏi phạm tội (9,47), phải uống chén đắng và trở nên đầy tớ mọi người (10,38-44)… Những điều này cho tới giờ các Tông đồ vẫn chưa hiểu. Theo Chúa mà như vậy. Thầy đi một đường, trò đi một lối như vậy đâu có được! Đúng là không thể được. Không thể thành môn đệ bằng lối suy tư con người. Cần thiết phải có ơn Chúa, phải được Chúa mở mắt, đem ánh sáng cho. Có vậy mới nhìn ra giá trị ơn cứu độ của Chúa và mới biết lựa chọn thái độ nguơì tín hữu, theo sự hướng dẫn của Chúa. Có vậy mới thoát khỏi cảnh tăm tối u mê như một căn bệnh mù lòa trầm trọng.

Người hành khất mù được sáng mắt nhờ đức tin. “Đức tin của con đã cứu con” nghĩa là gì? Là chính đức tin mà Chúa trao tặng cho anh để anh tuyên xưng trước mặt mọi người. Anh đã can đảm tuyên xưng đức tin ấy bằng cách lớn tiếng kêu cầu, bằng cử chỉ vứt bỏ áo choàng (nhu cầu tối cần của anh), bằng cách nhảy chồm lên, vội vã chạy tới Chúa, bất chấp mọi cấm cản của những người chung quanh. Cặp mắt đức tin của anh đã được bật sáng và anh đã nhìn thẳng vào đối tượng duy nhất là Đức Giêsu Nagiarét. Nhờ đức tin sống động ấy, anh mù đã thấy điều mà những người sáng không được thấy (“Con Vua Đavid”, nghĩa là Đức Kitô, Đấng được Chúa Cha xức dầu bằng Thánh Thần): “Anh liền xem thấy, rồi đi theo Người”.

Lạy Chúa, xin bật sáng niềm tin chúng con để chúng con nhìn ra Ngài đang hiện diện với chúng con. Xin giúp chúng con biết can đảm tuyên xưng Ngài trong mọi tình huống của cuộc đời, để chúng con tiếp tục bước theo Chúa trên đường phục vụ hôm nay.

 

42. Mù loà.

Con mắt là một ơn huệ Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Thật là bất hạnh nếu chúng ta bị mù từ khi mới sinh hay do một tai nạn, một cơn bệnh nào đó. Chính vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy anh mù tại Giêricô, ngồi ăn xin bên vệ đường, đã cố gắng làm cho Chúa Giêsu chú ý tới mình, vì anh ta đã được nghe nói rất nhiều về Ngài, Đấng đầy lòng thương xót, đã thực hiện biết bao nhiêu phép lạ để xoa dịu những nỗi khổ đau. Bởi đó, anh ta đã lớn tiếng kêu cầu:

– Lạy Đức Kitô, con vua Đavít, xin thương xót con cùng.

Nếu Thiên Chúa ban cho cặp mắt sáng, chúng ta hãy cảm tạ Ngài. Nhưng điều quan trọng, đó là chúng ta đã sử dụng cặp mắt ấy như thế nào? Chúng ta có biết mở mắt ra để nhìn ngắm những cái khả dĩ nâng cao tâm hồn và làm đẹp cho cuộc đời chúng ta hay không? Đồng thời chúng ta có biết nhắm mắt lại trước những cái khả dĩ làm cho tâm hồn chúng ta bị hoen ố hay không?

Có một vị hoàng tử được vua cha ban tăng cho hai chú ngựa quí giá. Thế nhưng cả hai vẫn còn thuộc loại ngựa chứng, chưa biết vâng phục.

Khi vị hoàng tử tới gặp, thì chúng ta không chịu đứng yên một chỗ hay tiến đến với chủ của mình. Trái lại, chúng ta chạy chỗ này chỗ kia và thích phi nước đại trên những cánh đồng hoang. Nhưng rồi vị hoàng tử đã ra công tập luyện và dần dần chúng đã biết vâng phục. Chúng chỉ phi nước đại khi vị hoàng tử kéo dây cương và thủng thẳng đi từng bước một khi dây cương được buông lỏng.

Từ những chú ngựa cứng đầu, chúng đã trở nên những con ngựa ngoan hiền. Kể từ nay, chúng không còn chạy xiên bên nọ, chạy xọ bên kia. Nhưng chúng bước đi một cách đều đặn với tiếng hí reo vang.

Đây chỉ là một câu chuyện, thế nhưng từ đó chúng ta rút ra một điều thực hành. Vị hoàng tử chính là mỗi người chúng ta. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên con cái Chúa. Ngài cũng đã ban cho chúng ta một quà tặng quí giá hơn hai chú ngựa kia rất nhiều, đó là cặp mắt sáng.

Cũng như hai chú ngựa chứng, cặp mắt chúng ta luôn nhìn chỗ này và liếc chỗ nọ. Bởi đó, cần phải biết làm chủ và quản lý chặt chẽ cặp mắt của chúng ta. Chỉ nhìn những cái làm cho tâm hồn trở nên cao thương và xa tránh những gì làm cho tâm hồn bị vẩn đục.

Cặp mắt chính là của sổ của linh hồn. Cánh cửa được mở ra để đón nhận những làn gió mát và những tia nắng ấm, nhưng phải lập tức đóng lại khi trời mưa gió. Cũng thế, cặp mắt được mở ra để ghi nhận những cái hay, những cái đẹp để làm giàu cho tâm hồn và cuộc sống, nhưng chúng ta phải lập tức đóng lại trước những cái làm cho tâm hồn bị hoen ố. Vì thế, Thánh Kinh đã bảo:

– Tội lỗi đột nhập vào tâm hồn qua con mắt như qua một khung cửa.

Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Adong Eva. Trước hết hai ông bà đã nhìn ngắm trái cấm, rồi thầm mong được nếm thử. Và rồi những gì xảy ra, hẳn chúng ta đã biết: Hai ông bà đả ngắt trái cấm mà ăn và phản bội cùng Thiên Chúa.

Hãy canh phòng con mắt như canh phòng biên giới, đừng đễ cho kẻ thù đột nhập.

Để kết luận, chúng ta hãy nhớ lại lời ông Gióp đã nói như sau:

– Tôi đã giao kết với cặp mắt của tôi là sẽ xa tránh những cái nhìn làm cho tâm hồn tôi xao xuyến.

Nếu bây giờ có gìn giữ cái nhìn, thì tâm hồn chúng ta mới được sạch trong và mai ngày bản thân chúng ta mới được chiêm ngưỡng Chúa trong vinh quang muôn đời, bởi vì phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

 

43. Khát vọng chính đáng

Cuộc sống con người là một chuỗi những khát vọng. Có những khát vọng chính đáng, nhưng cũng có những khát vọng không chính đáng. Khát vọng làm lớn của Giacôbê và Gioan (ngồi bên tả, bên hữu Chúa Giêsu) là không chính đáng. Khát vọng được nhìn thấy của người mù Bartimê trong Tin mừng là rất chính đáng.

Những khát vọng chính đáng mà không khả thi thì cũng chỉ là mơ mộng hão huyền. Khát vọng của anh chàng mù Bartimê đã trở thành hiện thực vì anh đã gõ đúng cửa, tìm đúng nơi để tỏ bày khát vọng của mình. Và Chúa Giêsu đã đong đầy khát vọng chính đáng của anh nhờ lòng tin vào Chúa vững mạnh của anh. Con mắt tâm hồn sáng tỏ sẽ mở ngỏ cho niềm tin đi về và làm lớn mạnh niềm tin ấy.

Có thể nói, trước khi gặp Chúa, con mắt thể xác của anh chàng Bartimê bị mù, nhưng con mắt tâm hồn, con mắt đức tin của anh là rất tốt và rất sáng. Anh đã nhìn thấy được Chúa Giêsu là Con Vua Đavit và là Con Thiên Chúa, Đấng có thể đông đầy khát vọng chính đáng nơi anh: “Lạy Con Vua Đavit, xin cho tôi được thấy”. Với con mắt đức tin sáng tỏ như thế khiến cho anh có sức mạnh để đến được với Chúa Giêsu dù bị ngăn cản bởi những người khác. Như vậy, chúng ta có thể nói được rằng: con mắt đức tin quan trọng hơn con mắt thể xác vì khi con mắt đức tin đã sáng rồi thì mọi chuyện cũng trở nên sáng. Con mắt đức tin sẽ giúp cho con người tin nhận Thiên Chúa, Đấng là nguồn Aùnh sáng và nguồn Hạnh phúc của con người trong cuộc đời này. Cho nên, điều quan trọng trong cuộc đời chúng ta là làm sao giữ cho con mắt đức tin của mình đừng bao giờ bị mù hay bị che khuất bởi những dục vọng đen tối của mình.

Nhưng trong thực tế, có rất nhiều người dù con mắt thể xác vẫn sáng, vẫn đẹp nhưng con mắt đức tin của họ đã bị mù. Vì thế, họ không nhận ra được Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành, không nhìn thấy người khác là anh em của mình. Mù mắt đức tin sẽ dẫn đến những hậu quả đáng sợ như:

– Thấy mình là tất cả nhưng không thấy Thiên Chúa. Họ không cần ai làm người chỉ đường cho họ trong cuộc đời này. Vì thế, họ bước đi trong cuộc đời này mà không biết mình đi đâu. Nói cách khác là họ không thấy và không biết con đường mình đang đi. Chỉ biết mình đang đi nhanh, đi hết tốc độ. Và vì không biết đường cũng không thấy đường nên họ không đi tới được nơi mình muốn tới, hoặc sẽ bị sa xuống vực thẳm. Có thể nói, tâm hồn của nh?ng ng??i có tâm hồn mù tối như ly nước đã đầy, không thể rót gì thêm vào đó được nữa. Chúa có ban ơn cho họ thì cũng bằng thừa. Thiên Chúa cũng hãy còn xa lạ với họ lắm!

– Không nhìn thấy tha nhân là anh em của mình nên họ sống ích kỷ, tham lam, độc ác với đồng loại của mình. Họ sẽ nhìn người khác theo kiểu: người với người là chó sói của nhau. Ai mạnh thì thắng, ai yếu thì thua. Không có vấn đề tình yêu trong cuộc đời này. Anh mù Bartimê cũng đang bị người ta ngăn cản trong việc anh đến với Chúa Giêsu. Họ cho rằng anh mù này không đáng được xót thương. Nhưng với Chúa Giêsu thì mọi sự đã thay đổi.

– Bất mãn và hay buông xuôi với những gì xảy ra không đúng với ý muốn của họ. Vì họ không thấy được ý nghĩa của những gì mà họ gọi là “đau khổ”. Đối với họ, thập giá là điều ô nhục, là dấu chỉ của sự suy tàn trong vô vọng. Họ không thể thấy và không thể hiểu hiểu: ” Con đường từ Thập giá sẽ dẫn đến vinh quang phục sinh huy hoàng”.

Chúng ta hãy xét lại xem con mắt đức tin của mình có được sáng hay chưa? Xin Chúa ban cho chúng ta luôn có được con mắt đức tin luôn cháy sáng, để chúng ta biết nhận ra những điều quan trọng trong cuộc đời này là Kính Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Nếu đôi mắt tâm hồn của chúng ta có bị lu mờ hay mù tối thì chúng ta hãy mau chạy đến với Chúa để được Người chữa lành cho chúng ta để chúng ta biết khao khát những chuyện đẹp lòng Chúa trong cuộc đời này, vì Chúa đã phán: “Phúc cho biết khao khát nhân đức trọn lành, vì họ sẽ được Thiên Chúa ban cho no đầy”. Amen.

 

44. Chúa Thánh Thần.

Thông thường, trong mọi tổ chức của con người, đều có một vị lãnh đạo. Có khi vị lãnh đạo đó là do cả nhóm chọn ra, có khi là do cấp trên bổ nhiệm, hoặc có khi là do một áp lực nào đó. Chúng ta có lẽ mong ước mọi người đều được quyền dìu dắt lẫn nhau, tuy nhiên điều này hiếm khi xảy ra. Tôi nghĩ tội lỗi đã phá hủy các mối liên hệ tốt đẹp giữa con người với nhau, bằng sự ngờ vực, tính cạnh tranh và nhiều thứ khác nữa.

Tin Mừng đối với người Kitô hữu chúng ta là một giải pháp cho nhu cầu của chúng ta được dẫn dắt trên đường thánh thiện. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một vị hướng dẫn vô phương trách cứ, đó là Chúa Thánh Thần. Khi chúng ta đã quyết tâm bước theo Chúa Giêsu thì việc đem ra thực hành quyết tâm đó, theo thánh Phaolô chính là để mình “được dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần”. Cụm từ này nghĩa là gì?

Trước hết, thánh Phaolô khuyến khích chúng ta tìm kiếm sự hướng dẫn phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải do thế tục hay xác thịt. Chính Chúa Thánh Thần có chức năng dẫn dắt chúng ta đến chân lý cứu độ. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nhận biết Cha là Thiên Chúa thật. Một khi chúng ta đã chấp nhận sự thật, chúng ta sẽ dễ dàng vâng theo thánh ý Người.

Thần khí làm cho chúng ta trở nên con cái và là người thừa kế của Thiên Chúa là một đề tài suy gẫm phong phú khôn lường. Bạn hãy nghĩ đến đặc quyền làm con cái của Thiên Chúa! Quyền làm con Thiên Chúa này đối nghịch với việc làm nô lệ cho tội lỗi.

Như vậy, mọi sự đều dẫn đến việc chúng ta có thật lòng tận hiến bản thân cho Thiên Chúa hay không, để đón nhận ơn làm con cái của Người. Nếu chúng ta hiểu rõ ân huệ làm con Thiên Chúa, chúng ta sẽ sẵn sàng để sống như những người con của Cha trên trời. Điều này có nghĩa là chúng ta phải dứt khoát từ bỏ con đường tội lỗi, và mở lòng ra để đón nhận sự hướng dẫn và tác động của Chúa Thánh Thần.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin đốt lửa yêu mến trong con. Xin dẫn đưa con vào sâu trong sự sống của Thiên Chúa.

 

45. Tin tưởng.

Một người mù hết lòng tin tưởng kêu xin Chúa cứu chữa và Chúa đã cho anh được toại nguyện. Đó là một bài học, một gương sáng cho chúng ta trong việc cầu xin Chúa.

Tên anh mù là Batimê, ngày nào cũng vậy, anh ngồi bên lề đường ở cổng thành Giêricô để ăn xin mọi người qua lại. Nhưng hôm nay, không hiểu có chuyện gì mà ồn ào nhộn nhịp thế? Anh hỏi và người cho anh ta biết có Đức Giêsu đi qua đây. Nghe nói đến Đức Giêsu mà từ lâu anh đã nghe đồn về lòng từ bi và những phép lạ Ngài làm. Đây là dịp may cho anh nên anh kêu xin với bất cứ giá nào: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”.

Lời kêu xin này, chúng ta thấy có một điều đặc biệt, khác thường. Anh không chỉ thưa: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa, anh tuyên xưng danh Chúa trước mặt mọi người, kể cả trước những người Pharisêu và kinh sư có mặt trong đám đông đó.

Trong Cựu ước, tước hiệu “con vua Đavít” là tước hiệu nói lên niềm hy vọng của dân Do Thái vào một vị cứu tinh sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ và đem lại vinh thắng cho đất nước. Trong Tân ước, tước hiệu này đã được sứ thần Gabrien nhắc tới khi truyền tin cho Đức Maria, đó cũng là lời dân chúng tung hô Chúa Giêsu khi Ngài khải hoàn vào Giêrusalem ngày lễ lá.

Ở đây, anh mù kêu xin Chúa bằng tước hiệu “con vua Đavít” nghĩa là anh nhận ra Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế. Vì vậy lời cầu xin mang một tính chất khác, anh không xin Đức Giêsu như xin những người khác, những người chỉ có thể giúp cho anh một chút tiền, một chút của ăn để sống qua ngày. Lời cầu xin ấy chắc chắn là hoa trái của một niềm tin sâu xa trong lòng anh. Anh tin vì đã nghe người ta đồn thổi về một ông Giêsu đã làm những điều kỳ diệu, và niềm tin ấy còn đi xa hơn nữa: ông Giêsu lạ lùng ấy chính là Đấng Mêsia, là Đấng có khả năng cứu anh khỏi cảnh mù lòa, khỏi tình trạng bi đát, khốn khổ.

Chúa Giêsu đã nghe thấy tiếng kêu xin của anh và Chúa biết được lòng tin của anh, nên Chúa không cấm anh nói ra tước hiệu của Ngài như những lần khác, vì lúc này cũng gần đến ngày Chúa chịu nạn, nên Chúa muốn chân nhận công khai tước hiệu đó, và Chúa đã thương anh thực sự bằng câu nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Thế là anh được sáng mắt, xem thấy rõ mọi người và thấy rõ chính Chúa.

Bài học hữu ích cho chúng ta là lòng tin và lời cầu xin của người mù này. Chúng ta thấy anh tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và anh đặt hết lòng tin vào quyền năng của Chúa, chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp anh, nên anh kêu xin Chúa, anh gào to xin Chúa, khi mọi người bảo anh im đi, anh càng gào to hơn để Chúa nghe thấy. Chúa đã thương cứu chữa, cho anh được sáng mắt do lòng tin tưởng sâu xa của anh. Đây là một bài học quý giá cho chúng ta.

Thực vậy, Chúa đã ban cho chúng ta một bí quyết để được cứu giúp là tin tưởng cầu nguyện. Trước hết, chúng ta phải hết lòng tin tưởng vào Chúa. Chúng ta phải tin rằng: trên vạn nẻo đường của chúng ta, không phải chúng ta đi tìm kiếm Chúa cho bằng chính Chúa theo đuổi và tìm kiếm chúng ta. Và trong mọi biến cố cuộc sống, chúng ta phải tin rằng: lúc nào Chúa cũng có mặt: trong an vui hạnh phúc hay trong thất bại khổ đau, Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta để mời gọi chúng ta tin tưởng vào tình yêu thương của Ngài. Ngay cả khi chúng ta muốn khước từ và gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Ngài vẫn tiếp tục theo đuổi chúng ta. Kinh Thánh đã ví Thiên Chúa như một người tình chung thủy, lúc nào cũng chờ đợi, lúc nào cũng nài nỉ, lúc nào cũng vỗ về, lúc nào cũng tha thứ, lúc nào cũng yêu thương. Như thế, lúc nào chúng ta cũng phải tin tưởng vào Chúa: trong an vui thịnh đạt, chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa, trong thất bại khổ đau, chúng ta tin tưởng phó thác, và ngay cả những lúc vấp ngã vì yếu đuối, chúng ta cũng hãy tin tưởng vào lòng tha thứ vô bờ của Ngài. Tóm lại, đức tin của chúng ta phải đơn sơ nhưng phải phó thác hoàn toàn như đứa trẻ đặt vào cha mẹ chúng. Bất cứ đứa trẻ nào cũng tin tưởng cha mẹ chúng có thể làm tất cả những gì mà chúng yêu thích, ước mong, chúng ta cũng phải có đức tin như thế.

Rồi chúng ta thể hiện đức tin đó bằng cầu nguyện. Cầu nguyện có một sức mạnh có thể lay chuyển cánh tay vạn năng của Chúa, cầu nguyện là cơ hội để Chúa can thiệp vào hoàn cảnh của chúng ta, cầu nguyện thật và cầu nguyện đúng như Chúa dạy sẽ giúp chúng ta chạm vào bản tính toàn năng của Chúa. Nói tóm lại, tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống của chúng ta sẽ được Chúa giải quyết qua lời cầu nguyện đầy tin tưởng và thực tâm của chúng ta.

Vậy tại sao có biết bao lần chúng ta cầu xin mà không được hay chưa được? Chúng ta cần phân biệt: “Chúa nghe lời chúng ta” và “Chúa ban điều chúng ta xin”. Thiên Chúa có thể không cho điều chúng ta xin mà vẫn nghe lời chúng ta, bởi vì khi chúng ta cầu xin, Thiên Chúa có thể đáp ứng nhiều cách: hoặc ban chính điều chúng ta xin, hoặc chúng ta xin một ơn, Ngài ban một ơn khác, cũng có khi chúng ta không xin, nhưng Thiên Chúa nhìn xa, Ngài ban cho chúng ta điều chúng ta cần thiết mà chính chúng ta không nghĩ tới, cũng có thể chúng ta cầu xin hoài mà Chúa không cho hay chưa cho, là vì Chúa muốn tăng thêm đức tin của chúng ta khi cầu xin. Vì vậy, trước hết và trên hết chúng ta hãy xác tín: Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn yêu thương chúng ta. Ngài có làm cho chúng ta được toại nguyện hay không, hoặc Ngài nhận lời cầu xin của chúng ta theo cách nào thì cũng đều là vì ích lợi cho linh hồn chúng ta mà thôi.

Tóm lại, Thiên Chúa là một người Cha đầy tình yêu thương. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài, Ngài luôn sẵn sàng cứu giúp chúng ta, với điều kiện chúng ta tin Ngài và xin Ngài. Vậy trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống chúng ta hãy hết lòng tin tưởng và tha thiết cầu xin như người mù hôm nay, chúng ta sẽ thấy được quyền năng Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời chúng ta.

 

46. Ước ao được nhìn thấy

Một trong những nỗi khổ tâm của con người là không được nhìn thấy cảnh vật và những người đang sống xung quanh mình. Thà rằng không có đôi mắt chứ nếu có mà không nhìn thấy được thì còn bất hạnh nào hơn. Vì đôi mắt chính là cửa sổ của tâm hồn. Nếu rơi vào hoàn cảnh ấy chắc chắn ao ước duy nhất của chúng ta là được nhìn thấy.

Cũng vậy người mù Bartimê trong đoạn Tin mừng hôm nay rất ước ao được nhìn thấy. Hoàn cảnh của anh lại càng đáng thương hơn vì không những anh bị mù mà anh lại còn nghèo nữa. Vì nghèo nên anh phải ngồi ăn xin bên vệ đường ngày này sang ngày khác.

Nghe biết có Chúa Giêsu đi ngang qua, bất chấp tất cả anh đã kêu xin Người: “Lạy ông Giê-su, Con vua Ða-vít, xin dủ lòng thương tôi! ” (Mc 10, 47b)

Chúa Giêsu biết nỗi khổ tâm của anh nhưng Người vẫn muốn anh xác định lại một lần nữa: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10, 51). Với tất cả lòng tin và phó thác trọn vẹn vào Chúa Giêsu anh tiếp tục kêu xin Người. “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc 10, 51b). Không chần chừ Chúa Giêsu đã cho anh toại nguyện: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10, 52a)

Không những Chúa Giêsu cho anh được sáng đôi mắt thể lý mà Người còn ban cho anh được sáng đôi mắt đức tin. Chính đôi mắt đức tin ấy giúp cho anh quyết định đi theo Chúa Giêsu. Ðể quyết định theo Chúa Giêsu chắc chắn anh đã thấy được mình yếu đuối. Từ sự yếu đuối ấy, anh tin rằng Chúa Giêsu là nguồn sống của đời mình.

Thánh Augustinô đã một lần cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa xin cho con biết con”. Biết Chúa là Ðấng yêu thương, là nguồn sống của đời con. Biết con là một thụ tạo mỏng dòn yếu đuối cần được hưởng tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Thánh nhân được sáng mắt đức tin nên ngài đã dâng lời cầu nguyện một cách khiêm tốn và chân thành như thế.

Trong thế giới hôm nay, con người ta rất dễ bị ru ngủ trong tiền bạc vật chất hay uy quyền danh giá. Do đó, người kitô hữu chúng ta không nhiều thì ít cũng bị ảnh hưởng. Bị ảnh hưởng để rồi người tín hữu không còn tin vào Chúa, họ ỷ lại vào sức của riêng mình. Ðây là điều rất nguy hiểm cho đời sống đức tin của người tín hữu chúng ta.

Tiền bạc vật chất hay uy quyền danh giá sẽ làm cho đôi mắt đức tin của chúng ta không còn biết Chúa là ai cũng như không còn biết là ai nữa. Những lúc đó chúng ta hãy mượn lời cầu nguyện của Thánh Augustinô mà chân thành khiêm tốn dâng lên Chúa. Chúng ta có thật lòng ước ao được nhìn thấy thì Chúa Giêsu mới chữa lành cho.

 

47. Sinh viên y khoa.

Fred Collier là một sinh viên y khoa. Ông xuất thân từ một gia đình nghèo khổ tại tiểu bang Kansas nên không không đủ tiền để lấy bằng bác sĩ. Ông không biết làm sao để có thể học cho xong để lấy cái bằng.

Rồi một ngày kia, ông bất chợt cầm lên một tờ báo tại một hiệu hớt tóc nọ. Trong đó có một bài báo viết về sự hiền lành và tình yêu của bà Eleanor Roosevelt, đệ nhất phu nhân của Tổng Thống Franklin Roosevelt.

Fred đã về nhà và viết thư cho cựu đệ nhất phu nhân. Ông đã gởi lá thư đi nhưng không biết có được ích gì không.

Sau đó một thời gian, đệ nhất phu nhân Roosevelt đã đồng ý để gặp Fred. Sau cuộc nói chuyện, bà Roosevelt đã đồng ý để giúp đỡ Fred.

Sau đó một thời gian, cựu đệ nhất phu nhân đã thân hành đến nhà của Fred để thăm. Nhà của Fred là một phòng đi thuê chật hẹp (apartment). Chủ nhà đã hết hồn khi biết rằng căn hộ của mình được một vị khách quí như thế đến thăm.

Sau khi Fred học xong và đậu bằng cấp y học, ông nói với bà Roosevelt là ông không biết phải làm cách nào để mà báo ơn bà. Bà nói với ông rằng ông không cần phải lo lắng việc trả ơn. Sau đó bà tiếp: “Tôi sẽ được trả ơn bằng cách là khi nào anh đi làm và có tiền thì hãy giúp đỡ cho những người xứng đáng được giúp đỡ như chính anh.”

Câu truyện của Fred có nhiều phần giống như câu truyện của anh mù trong bài Phúc Âm hôm nay.

Giống như người mù, Fred đã gặp những khó khăn trong cuộc sống mà tự anh không thể làm gì được. Giống như người mù, anh đã tìm đến những người khác để xin họ giúp đỡ. Giống như người mù, Fred đã được giúp đỡ để hoàn thành giấc mơ của anh.

Cả hai câu truyện của Fred và bà Roosevelt và người mù mà Chúa Giêsu diễn tả cho chúng ta một điều quan trọng. Đó là trong cuộc sống của chúng ta có những lúc chúng ta phải biết chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ.

Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu và cách Fred đã chạy đến xin người khác giúp đỡ. Chúng ta biết chạy đến tới Chúa để xin Ngài giúp đỡ. Có đôi lúc, loài người phải bó tay không thể giúp đỡ chúng ta giải quyết các vấn đề. Chúng ta chỉ còn biết một điều là chạy đến với Chúa Giêsu xin Ngài giúp đỡ như người mù trong bài Phúc Âm hôm nay.

Gương mẫu để giúp chúng ta biết chạy đến xin Chúa ra tay giúp đỡ là chính Chúa Giêsu trong cảnh vườn Ghếtsimani. Chúa Giêsu đã cầu nguyện xin Chúa Cha nâng đỡ Ngài: “Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự. Vậy xin cất chén này khỏi Con, nhưng đừng theo ý Con một theo ý Cha” (Mc 14:36). Chúa Giêsu đã trình bày sự cần thiết của Ngài với Chúa Cha: “Cha có thể làm được mọi sự”, nhưng Ngài còn thêm “Đừng theo ý Con, một theo ý Cha.”

Và đó chính là cách Thiên Chúa thường giúp chúng ta. Ngài chấp nhận lời cầu nguyện của chúng ta. Có lúc lời chấp nhận ấy giống như chúng ta mong đợi hoặc có lúc Ngài chấp nhận theo ý của Ngài sắp đặt.

Bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết chạy đến xin người khác và Thiên Chúa giúp chúng ta trong những cơn cùng khổ như Fred và người mù đã làm.

Nếu chúng ta biết làm những việc này với tinh thần cầu nguyện thì chúng ta sẽ được họ giúp đỡ chúng ta hơn là chúng ta tưởng.

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện mà nó diễn tả cách thức Thiên Chúa trả lời những lời cầu nguyện của chúng ta trong cách thức mà chúng không thể nào dám nghĩ đến.

“Con xin cho được khỏe mạnh, để làm những việc lớn lao; Con đã lãnh nhận được sự đau yếu, để có thể làm những việc tốt hơn… Con xin cho được giàu sang, để con được hạnh phúc; Con đã lãnh nhận được sự nghèo khổ, để con biết khôn ngoan… Con xin cho được quyền hành, để con được ca tụng; Con được sự yếu đuối, để con biết trông cậy vào Chúa… Con cầu xin cho được tất cả những gì cần thiết, để cuộc sống con được vui vẻ; Con lãnh nhận được sự sống, để có thể an hưởng tất cả…

 

48. Mù loà.

Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù tại Giêricô, từ đó chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tình trạng mù lòa thiêng liêng, mà rất có thể chính chúng ta cũng đang mắc phải. Vậy thế nào là một người mù lòa về phương diện thiêng liêng?

Trước hết, đó là người không nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa qua những kỳ công trong vũ trụ.

Thực vậy, người là một con vật có trí khôn, và với trí khôn, khi nhìn ngắm trật tự lạ lùng của vũ trụ, chúng ta phải nhận ra sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa.

Cùng như khi nhìn vào một ngôi nhà, chúng ta sẽ thấy ngôi nhà ấy không phải tự mình hay do ngẫu nhiên mà có. Sở dĩ nó có là do những người thợ đã làm nên. Cũng vậy, vũ trụ vật chất này có được là do một Đấng Quyền Năng đã tạo dựng, sắp xếp và bảo vệ nó.

Chính vì thế, chúng ta có thể nói: người là một con vật có tôn giáo, một con vật biết hướng tới Thiên Chúa. Đồng thời, thiên nhiên chính là một cuốn sách khổng lồ, trong đó mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa.

Nhìn vào thiên nhiên mà không nhận ra hay cố tình chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, thì quả thực, đó là một người mù lòa.

Tiếp đến, người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là người không nhận ra tình thương của Thiên Chúa qua những ơn huệ Ngài đã ban cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.

Thực vậy, từng phút và từng giây chúng ta đã lãnh nhận biết bao nhiêu ơn lành của Thiên Chúa. Từ những ơn huệ tự nhiên cho đến những ơn huệ siêu nhiên, từ những ơn lành phần hồn cho đến những ơn lành phần xác. Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể để nói lên sự ân cần chăm sóc Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.

Chẳng hạn về phần xác, nếu không có cơm để ăn, nếu không có nước để uống, nếu không có khí trời để thở, thì chỉ trong vòng đôi ba phút đến dăm bữa nửa tháng là chúng ta sẽ chết. Vậy thì gạo, nước và khí trời ấy bởi đâu, nếu không phải là bởi chính Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.

Vì thế, khi kiểm điểm lại cuộc sống, khám phá ra những ân huệ đó mà không nhìn thấy tình thương của Thiên Chúa, thì quả thực chúng ta là những người mù lòa.

Ngoài ra, người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là những người không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những anh em nghèo khổ và bất hạnh.

Thực vậy, trong Phúc âm rất nhiều lần Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với những kẻ túng thiếu, bệnh tật và hèn mọn. Qua hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài đã xác quyết:

– Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thưở đời đời, vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi Ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm.

Và Ngài đã kết luận:

– Mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho một người anh em hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.

Vì thế, nếu chúng ta không nhận ra Chúa đang thực sự hiện diện nơi những người chung quanh, để rồi cố gắng giúp đỡ họ về tinh thần cũng như về vật chất, thì quả thực chúng ta cũng là những kẻ mù lòa.

Sau cùng, những người mù lòa về phương diện thiêng liêng còn là những người không cảm nhận được những nguy hiểm ẩn náu đằng sau những dịp tội. Họ giống như người mù về phương diện thể xác: đi bên cạnh con rắn độc mà không ý thức được sự nguy hiểm đang rình rập mình. Vậy dịp tội là gì?

Đó là những hoàn cảnh thúc đảy chúng ta dễ dàng vấp ngã. Thực vậy, tục ngữ đã bảo:

– Chơi dao có ngày đứt tay.

– Lửa gần rơm, lâu ngày cũng cháy.

Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.

Vì thế, nếu không nhận ra những nguy hiểm tiềm ẩn đằng sau những hào nhoáng, những quyến rũ, những mời mọc của dịp tội, thì chúng ta cũng chỉ là những kẻ mù lòa về phương diện thiêng liêng mà thôi.

Chính vì vậy, chúng ta hãy bắt chước chàng thanh niên mù lòa mà kêu lên cùng Chúa: Lạy Chúa, xin cho con được thấy.

 

49. Chúa Nhật 30 Thường Niên

Mắt là một trong những giác quan của con người. Chính nhờ mắt mà chúng ta nhân ra những vật xung quanh. Không cần phải nói chúng ta cũng biết mắt cần thiết thế nào cho con người. Vì thế mà người ta thường nói ghép kết quả của các giác quan khác với thị giác, ví dụ: nghe thấy, ngửi thấy, cảm thấy…cho nên không thể thấy được, đó là một khiếm khuyết, một thiệt thòi, một nỗi bất hạnh của con người.

Thức đêm mới biết đêm dài. Chỉ có người trong cuộc mới có thể cảm nhận được sự việc nó là thế nào. Chỉ có người mù mới cảm nhận được mù khổ như thế nào. Còn chúng ta chỉ có thể dựa vào biểu hiện của họ để có thể biết được phần nào mà thôi.

Phản ứng của anh mù này càng lúc càng quyết liệt: ban đầu anh gào to, khi bị người ta quát nạt, ngăn cản anh càng gào to hơn, khi được Chúa Giêsu gọi đến, anh liền vất áo choàng, đứng phắt dậy đến với Chúa Giêsu. Những biểu hiện đó giúp chúng ta hiểu được cuộc sống trong mù tối nó đã đày đọa anh như thế nào, Còn nữa, lời khẩn cầu thật tha thiết và quyết liệt như thể anh có thể đánh đổi cả sinh mạng để có thể được cứu chữa. Khi được nhận lời, anh vất ngay áo choàng, như thân phận đáng thương của anh để được đổi thay số phận. Chưa biết Chúa Giêsu sẽ làm gì cho anh, nhưng được thấy là tất cả những gì anh chờ đợi, mong mõi. Khi Chúa Giêsu hỏi: “anh muốn tôi làm gì cho anh”, anh đã không xin gì hơn là xin được thấy. Và Chúa Giêsu đã không làm anh thất vọng. Mù thì khổ, thấy được là hạnh phúc. Đó là bài học mà thánh Maccô muốn nói với chúng ta.

Chúng ta đâu có mù, vậy bài học này có ích gì cho chúng ta?

Phải, mắt chúng ta vẫn sáng, chúng ta vẫn còn thấy tiền, vàng, của cải vật chất. Chúng ta nhận ra lỗi lầm của người khác dễ dàng. Thế nhưng nhiều lúc chúng ta không nhận ra đâu là đúng, đâu là sai, đâu là thiện, đâu là ác, đâu là công bằng, đâu là bất công; đâu là việc phải làm, đâu là điều cấm kỵ, chúng ta không nhận ra thân phận của mình cũng tội lỗi, xấu xa, cũng rất đáng được người khác dũ lòng thương và cứu chữa.

Khổ là ở chổ đó, nguy cũng là ở chổ đó. Người biết mình bệnh thì lo chữa chạy thuốc thang, còn người không biết mình bệnh thì cứ thản nhiên mà sống, có khi lại lây nhiễm cho người khác mà không hay, để rồi đến một ngày, chết mà không hiểu lý do. Hậu quả sự mù lòa của đôi mắt tâm hồn cũng thế.

Nguyên nhân có thể vì chúng ta sống trong thế giới của những người mù nên không thể biết được thế nào là sáng. Cũng có thể do mưu ma chước quỷ làm mờ mắt chúng ta mà chúng ta không hay, nhưng cũng có thể đôi lúc chúng ta tự bịt mắt mình để không phải thấy, không phải biết, nhằm trốn tránh trách nhiệm hay để làm càng điều chúng ta muốn. Những lúc đó, chúng ta có mắt mà cũng như mù thôi.

Dù nguyên nhân nào đi nữa thì mù vẫn là mù. Mù thì phải sống kiếp khổ đau. Người mù đôi mắt thân xác thì sống khổ kiếp sống trần gian, rồi cũng sẽ qua đi, nhưng mù đôi mắt tâm hồn thì sẽ khổ muôn đời.

Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Người đã từng mở mắt trần tục cho anh mù thành Giêricô này thì người cũng sẽ mở mắt tâm hôn cho những ai kêu cầu người, bởi người đã từng tuyên bố: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống.

Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con, để chúng con nhận ra thân phận đáng thương của mình, để con có thể nhìn thấy Ánh Sáng ban sự sống đời đời.

 

50. Lòng tin.

Người mù là một kẻ bất hạnh và khổ sở triền miên. Tất cả thế giới sinh hoạt chung quanh như khép kín, đóng cổng trước mặt họ. Cả một đời họ phải chấp nhận sống lệ thuộc vào những người khác. Cho nên, tâm lý của người mù là họ dám làm bất cứ chuyện gì để được sáng mắt. Chẳng hạn như anh mù Batimê trong bài Tin Mừng, dám coi nhẹ mọi người, bất chấp tất cả, anh kêu gào xin Chúa Giêsu cứu chữa khi Ngài đi ngang qua thành Giêricô về Giêrusalem.

Có một người mù, một đêm kia đến thăm một người bạn thân. Hai người trò chuyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một cái đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói: “Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau”. Người bạn trả lời: “Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối xe cộ có thể chạy đụng vào anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi”. Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đi xe Honda đụng phải. Với vẻ buồn phiền lẫn tức giận, anh mù nói: “Coi kìa, người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi?”. Người kia đáp: “Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không thấy. Mong anh thông cảm”. Anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu chuyện kết luận: “Con người thường tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy”.

Anh mù Batimê trong bài Tin Mừng lại khác: anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy: anh thấy Chúa Giêsu là con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin, và chính vì lòng tin này, Chúa Giêsu đã thương anh, cứu chữa anh, cho anh được sáng mắt.

Chúng ta hãy tìm hiểu thêm: đám đông ồn ào tấp nập đi theo Chúa Giêsu trên đường, còn anh ta ngồi ăn xin bên lề đường. Anh hỏi người ta có chuyện gì mà ồn ào vậy? Người ta nói cho anh biết có Đức Giêsu đi qua. Có lẽ anh đã nghe nói về lòng từ bi và uy quyền toàn năng của Chúa Giêsu chăng, nên anh liền kêu to lên: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người ta chỉ nói cho anh biết, đó là Đức Giêsu, nhưng anh lại kêu xin “Con vua Đavít”. Như vậy anh đã nhận ra Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai. Anh mù nhưng anh lại thấy rõ hơn những người sáng đi theo Chúa Giêsu.

Chắc anh phải kêu la to lắm. Còn đám đông lại bắt anh im đi. Nhưng vô ích đối với anh, đây là dịp may hiếm có của hy vọng bừng lên. Thế là anh càng kêu gào to hơn cho Chúa nghe được: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Anh kêu đúng tên và tước hiệu của Chúa trong Kinh Thánh. Nghe thế, Chúa Giêsu dừng chân và truyền gọi anh ta lại. Thế là đám đông thay đổi thái độ. Trước đó họ bắt anh im đi, bây giờ họ lại khuyến khích anh. Anh liền vứt bỏ áo choàng, vui mừng nhảy cẫng lên đến với Chúa. Chúa hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Chúa hỏi như vậy không phải để biết anh muốn gì, xin gì, nhưng là để tăng thêm lòng tin cho anh, và cũng là dịp để anh tỏ lộ lòng tin công khai. Anh trả lời: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Anh mù, mắt anh không thấy Chúa, nhưng lòng anh đã thấy Chúa, vì anh có lòng tin, như Chúa đã xác nhận: “Lòng tin của anh đã cứu anh”. Bằng một lời đó thôi, Chúa đã thay đổi cuộc đời của anh: từ nay anh không còn ngồi bên lề đường nữa. Lòng tin đã đưa anh lên đường. Anh được sáng mắt ngay lúc đó và đi theo Chúa trên đường. Anh sáng của Đấng Thiên Sai còn giấu ẩn trong Đức Giêsu Nagiarét đã tỏa ra trên anh, trên đôi mắt anh. Anh là ngọn đèn Chúa đã thắp lên cho mọi người được nhìn thấy Ngài.

Nói rõ hơn, đám đông đang đi với Chúa Giêsu trên đường, nhưng thực ra là họ đang ở bên lề đường, vì họ đi trên cùng một con đường nhưng chưa đồng hành với Chúa, chưa đi theo Chúa. Họ sáng mắt, nhưng họ chỉ thấy Giêsu người làng Nagiaret, chứ không thấy gì hơn. Cũng như họ chỉ thấy một người mù ngồi ăn xin, chứ không thấy lòng tin của anh. Còn anh mù, anh đã thấy Ngài là Đấng Thiên sai, con vua Đavít. Anh đã thấy bằng lòng tin khi anh còn mù, và bây giờ anh đã thấy Ngài tận mắt. Anh đi theo Ngài.

Lòng tin của anh mù đã cứu chữa anh và là bằng chứng để người ta tin vào Chúa Giêsu. Tất cả chúng ta là những người đã có đức tin, chúng ta đang đi theo Chúa. Nhưng đức tin của chúng ta thế nào? Và chúng ta có làm cho người khác nhận ra đức tin của chúng ta qua đời sống chúng ta không?

Đối với chúng ta, ngoài việc tuyên xưng đức tin trong thánh lễ, thì trong mọi sinh hoạt hằng ngày chúng ta cũng phải tuyên xưng đức tin nữa bằng những việc từ thiện bác ái và sống cởi mở với những người chung quanh. Nếu chúng ta chỉ tuyên xưng đức tin một cách trọng thể, trong những lễ lạc, trong nhà thờ… mà chúng ta không có một cữ chỉ bác ái đối với những người ngoài là chúng ta chưa thực sự sống niềm tin ấy. Xin Chúa cho chúng ta biết sống và thể hiện đức tin trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.

 

51. Sự mù loà.

Một thanh niên mù từ lúc mới sinh đem lòng yêu thương một cô gái. Anh càng hiểu biết cô thì tình yêu của anh đối với cô càng thêm sâu đậm. Anh thấy cô đầy sự duyên dáng và khôn ngoan. Một tình bạn tốt đẹp phát triển giữa hai người. Nhưng rồi một ngày kia, một người bạn nói với anh thanh niên rằng cô gái ấy không xinh đẹp. Từ lúc đó, anh thanh niên bắt đầu bớt dần sự quan tâm đến cô gái. Kể cũng tệ thật. Có bao giờ anh “nhìn thấy” cô gái rất đẹp đâu. Chính người bạn của anh mới là người mù. Một người mù như anh đâu phán đoán theo cái vẻ bề ngoài. Chúng ta phải nhớ rằng có sự tỏa sáng bên trong.

Trong thời đại của Kinh Thánh, sự mù lòa là việc rất thường gặp. Ngày nay chúng ta đã loại trừ nhiều căn bệnh gây ra mù lòa. Và chúng ta cũng đã phát minh mọi loại dụng cụ để cải thiện thị giác của chúng ta. Chúng ta có các loại kính thường, kính hai tròng, kính làm cho lộng lẫy, kính trắc địa, kính viễn vọng, kính hiển thị… Trong lịch sử, chưa bao giờ chúng ta thấy nhiều hơn và xa hơn bây giờ. Đã hẳn, phép lạ mà Đức Giêsu làm cho Báctimê thường xảy ra trong các bệnh viện của chúng ta.

Vì chúng ta không mù lòa nên chúng ta nghĩ rằng câu chuyện trong Tin Mừng không liên quan đến chúng ta. Rõ ràng vì chúng ta thấy được nên bài Tin Mừng không ảnh hưởng gì đến chúng ta. Nhưng thử hỏi: chúng ta nhìn thấy tốt đến mức nào?

Báctimê phải chịu sự mù lòa về thể lý. Nhưng có những hình thức mù lòa khác. Chúng ta biết điều đó khi chúng ta sử dụng những thành ngữ như: “Tôi hoàn toàn ở trong bóng tối” hoặc “Thình lình bóng tối bao trùm lấy tôi” hoặc “Nó ở ngay trước mắt tôi thế mà tôi không thấy”. v.v…

Có thể nào một người mù thấy rõ hơn một người sáng mắt? Phải chăng một người mù cũng có thể nhìn thấy hơn cả một người sáng mắt theo nghĩa người ấy có nhiều sự hiểu biết và sự soi sáng bên trong?

Thánh Maccô dường như đã hiểu như thế. Thật vậy, xem ra điều này là điểm chính yếu trong câu chuyện. Báctimê dù bị mù lòa về thể lý, nhưng đã tin vào Đức Giêsu nhiều hơn các môn đệ khác của Người, dù họ có thị giác hoàn hảo. Trong khi anh ta không có chút nghi ngờ thì những người kia đầy sự nghi ngờ và lưỡng lự.

Đó là một điểm xấu nhất mà Đức Giêsu nói về những người đồng thời với Người. Người nói: “Họ có mắt mà không thấy”. Họ đã chứng kiến những việc cao trọng Người làm nhưng vốn không tin vào Người. Thiếu đức tin là thứ mù lòa còn trầm trọng hơn cả sự mù lòa thể chất.

Có một bóng tối xấu hơn bóng tối của Báctimê, bóng tối của sự vô tín. Nó cắt đứt chúng ta khỏi điều tốt đẹp hơn. Ánh sáng thể chất là một điều cao cả, một quà tặng mà chúng ta không bao giờ nên coi là điều đương nhiên. Nhưng ánh sáng tinh thần còn cao cả hơn nữa.

Câu chuyện trong Tin Mừng còn là câu chuyện về ơn gọi làm người môn đệ, còn hơn cả câu chuyện về việc chữa lành. Khi Báctimê được chữa khỏi anh có thể ra về để sống cuộc đời của mình và quên đi câu chuyện về Đức Giêsu. Nhưng không, anh đã trở thành một môn đệ trực tiếp và nhiệt tình của Đức Giêsu. Anh đi theo Người trên con đường Người đi. Đó là đỉnh cao của câu chuyện.

Từ chỗ chỉ là người tin, Báctimê đã trở thành một môn đệ. Có một sự khác nhau rất lớn. Người môn đệ sống như Đức Kitô đã sống. Sự sẵn sàng đi theo Đức Giêsu của Báctimê tương phản với thái độ của các môn đệ còn biết cách lờ mờ và còn lưỡng lự trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem.

Báctimê ở trong bóng tối cho đến lúc anh gặp được Đức Giêsu. Chúng ta sống trong bóng tối khi chúng ta nghi ngờ, thù hận, sống trong sai lầm và thành kiến, khi chúng ta chọn điều xấu. Vì thế, chúng ta có thể thành tâm cầu nguyện như Báctimê: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy được” để chúng ta thấy được điều gì là thật sự quan trọng trong đời sống và trên mọi sự. Chúng ta thấy được với con mắt của đức tin.

Trên trần gian này, dù chúng ta có thể cảm nhận Thiên Chúa, chúng ta không thấy được chính Thiên Chúa. Chúng ta phải bằng lòng lữ hành trong ánh sáng của đức tin về miền đất ở đó chúng ta có thể nhìn thấy như đã được thấy.

 

52. Vất bỏ.

Báctimê đã sống trong một tình trạng tồi tệ. Bệnh mù lòa là một nỗi đau buồn kinh khủng. Anh ta đã ngồi ở vệ đường, bên lề cuộc sống. Anh bắt buộc phải ăn xin và sống nhờ vào lòng bác ái của những người khác. Tình trạng của anh thật vô vọng.

Và tuy vậy, dường như anh có một thứ giàu sang. Anh có đức tin trong Đức Giêsu. Có thể đó chỉ là đức tin của người tuyệt vọng, nhưng vấn đề quan trọng vẫn là đức tin. Khi anh nghe nói Đức Giêsu đi ngang qua, không còn nghĩ đến lòng tự trọng và sự e thẹn, anh bắt đầu kêu to: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin đủ lòng thương tôi?” Anh không cần biết liệu Đức Giêsu có khước từ lời cầu của anh hoặc người ta đang quát nạt bắt anh phải im đi. Anh tiếp tục kêu to.

Khi anh nghe Đức Giêsu cho gọi anh, anh đứng phắt dậy, vứt bỏ chiếc áo choàng và đến gần Đức Giêsu. Cái áo choàng này là vật duy nhất có giá trị mà anh có. Đối với anh, nó có ý nghĩa bằng cả thế giới. Nó không chỉ đem lại cho anh sự ấm áp, mà còn che đậy sự cùng khổ thảm hại của anh và do đó nó cho anh một mức độ phẩm giá và khả kính. Tuy nhiên, anh đã vất bỏ nó đi và đi đến với Đức Giêsu như anh đã làm – trong tất cả sự tối tăm, nghèo khổ và thảm hại của anh và Đức Giêsu đã đón tiếp anh, trả lại cho anh thị giác.

Khi chúng ta đến bác sĩ để khám bệnh, chúng ta được yêu cầu cởi bớt áo quần. Lột bỏ là trở nên dễ bị tổn thương. Nhưng làm thế nào để bác sĩ định bệnh và chữa trị nếu chúng ta không để bác sĩ trước tiên trông thấy bệnh ấy?

Chúng ta cũng mù lòa theo những cách nào đó. Chúng ta cũng nghèo nàn trước mặt Thiên Chúa, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta đến gần Người. Người muốn làm điều tốt cho chúng ta. Tuy nhiên chúng ta thấy việc vất bỏ áo choàng để đến cùng Người sao khó quá. Lòng tự trọng làm chúng ta cố mặc lấy một cái dáng vẻ bên ngoài nào đó cho người ta thấy.

Chúng ta hãy tin rằng, chúng ta phải trở nên hoàn hảo. Nếu không, Người không yêu thương chúng ta nữa. Thừa nhận tội lỗi và sự yếu đuối của chúng ta sẽ khiến Người loại bỏ chúng ta, nhưng nếu chúng ta hoàn hảo, nếu chúng ta tốt, thì chúng ta chẳng cần đến Người.

Chúng ta phải thực hiện một hành động đức tin triệt để và tín thác vào Đức Giêsu. Chúng ta phải từ bỏ sự giả vờ, che đậy, ẩn mình sau những bức màn và mặt nạ, và phải bằng lòng xuất hiện trước mắt Người như chúng ta thật sự là thế. Chúng ta không có gì phải sợ ngoài lòng nhân hậu và sự chữa lành của Người. Một bệnh nhân không cảm thấy được chấp nhận nếu điều xấu nhất nơi người ấy không được chấp nhận. Cũng thế, chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương và chấp nhận nếu chúng ta không để Người nhìn thấy khía cạnh xấu nhất của chúng ta.

Nhiều người ngồi bên lề cuộc sống để ăn xin, không phải tiền bạc, nhưng lòng yêu thương, sự quan tâm, cảm giác họ quan trọng và đời sống này có một ý nghĩa. Nhiều người trong họ rất ngại ngùng xin được giúp đỡ. Họ sợ sự lãnh đạm thờ ơ của những người khác bắt họ phải im đi.

Bactimê là một kiểu mẫu cho những người khác. Nhiều người mù lòa và không có phương hướng nhưng họ đã tìm ra mục tiêu. Nghị lực và phương hướng cho đời mình và đó là kết quả của việc họ đi theo Đức Giêsu sẽ dẫn đến một đời sống hạnh phúc và viên mãn, một đời sống được chia sẻ với những người khác.

Lạy Chúa, xin cho chúng con nhìn thấy anh chị em túng thiếu của chúng con; xin cho chúng con nghe thấy tiếng khóc thầm của họ để chúng con không thể đi ngang qua. Vì chúng con cũng là những người hành khất nhưng Chúa làm cho giàu có. Chúng con cũng là những kẻ mù lòa nhưng Chúa mở mắt chúng con.

 

53. Câu chuyện.

Tên tôi là Báctimê. Hãy để tôi cố gắng thuật lại bị mù như tôi ra sao. Bị mù tức là bị phân ly với những người khác. Đó là sống trong thế giới của riêng mình. Thỉnh thoảng sự cô độc quấn chặt lấy tôi như sương mù lạnh lẽo. Tôi bị phân ly với mọi vật làm cho đời sống đáng giá, người ta cho rằng những sự vật tỏa sáng là việc đương nhiên.

Tôi bắt buộc phải đi ăn xin, điều này có nghĩa là tôi hoàn toàn lệ thuộc vào lòng bác ái của những người khác. Tôi ngồi bên vệ đường, bên lề cuộc sống. Tương lai tôi là một con đường dài, nhưng là một con đường không có đích đến. Cuộc đời không bao giờ có thể khác được. Tôi sẽ luôn luôn ở trong bóng tối. Luôn luôn ở bên lề, luôn luôn cô độc và phân ly.

Tôi khao khát một điều là thấy được. Và khát vọng này cứ đeo đẳng tôi chỉ cần nó buông tôi ra thì có lẽ tôi sẽ có được đôi chút bình an trong lòng mình.

Một số người cho tôi một đồng bạc khi họ đi ngang qua. Nhưng không một ai dừng lại để nói chuyện với tôi. Không một ai bước vào thế giới cô độc của tôi dù chỉ trong một phút. Sự thờ ơ của người khác là điều làm tôi tổn thương nhiều nhất. Thật khủng khiếp khi có người đối xử với bạn như thể bạn là một khúc gỗ không có chút cảm xúc nào.

Người ta nhanh chân bước vội khi đến gần tôi và đi chậm lại khi họ đã đi qua rồi. Tôi có thể nói như thế vì tôi nghe thấy tiếng bước chân của họ. Tôi không bao giờ hiểu được điều đó. Nó làm cho tôi có cảm tưởng rằng một cách nào đó, tôi mắc bệnh truyền nhiễm.

Thầy tư tế nói với tôi rằng sự mù lòa của tôi, do tội lỗi gây ra. Điều này có nghĩa là ngay cả Thiên Chúa cũng không có thời gian dành cho tôi và Người cũng đã đẩy ra ngoài.

Sự thể là như thế cho đến một ngày kia tôi nghe thấy âm thanh của một đám đông. Tôi dò hỏi và người ta nói với tôi rằng Đức Giêsu đi ngang qua đây. Thình lình niềm hy vọng lóe sáng trong tôi, và tôi bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi!”.

Người ta bắt tôi phải im lặng và nói rằng tôi chỉ gây ra trở ngại. Nhưng tôi từ chối giữ im lặng. Tôi kêu lên to hơn nữa.

Rồi người ta nói với tôi rằng Người đã nghe thấy tôi và đã cho gọi tôi. Vất bỏ cái áo choàng, tôi dò dẫm đường đến gặp Người. Người hỏi tôi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Tôi đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” Người không hỏi thêm gì nữa, Người chỉ nói: “Anh hãy đi lòng tin của anh đã cứu anh”.

Làm sao tôi có thể đi và quên hết mọi sự về Người? Tôi đi theo Người trên con đường Người đi. Tôi đã trở thành một môn đệ của Người. Niềm vui thấy được thì to lớn biết bao. Tôi muốn đến và sờ vào mọi người. Tôi xem họ tất cả đều là bạn bè của tôi. Khi tôi gặp Đức Giêsu, tôi cảm thấy tình yêu của Người. Người không chỉ đưa tôi từ bên lề vào bên trong cuộc sống mà còn cho tôi một chỗ danh dự ở bàn tiệc sự sống.

Đức Giêsu nói rằng sứ vụ của Người là “mở mắt cho người mù”. Trong sứ vụ ấy, vấn đề không phải là đem lại cái nhìn thể chất cho người ta nhưng là đem lại cho họ một tầm nhìn, một cách nhìn khác về đời sống. Vấn đề không phải là mở con mắt thể chất của người ta nhưng là mở ra trí óc, sự tưởng tượng và đặc biệt là tâm hồn của họ. Cuộc du hành thật sự để khám phá chủ yếu không phải là tìm kiếm những vùng đất mới nhưng là để có những tầm nhìn mới.

Đức Giêsu đã mở mắt cho ông Dakêu trước nguy cơ của cải, và khiến ông này chia tài sản cho người nghèo. Người đã mở mắt cho tên gian phi bị đóng đinh với Người để anh thấy lòng thương xót của Thiên Chúa và đón anh vào thiên đàng.

Chúng ta không nhất thiết phải mù về thể chất để cảm thấy mình ở trong bóng tối. Có những lúc bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể cảm thấy mình cô độc và lẻ loi. Chúng ta thấy mình ở bên lề mọi việc. Chúng ta không còn có ích và được chú ý đến. Người ta quên chúng ta. Không có tình yêu thì thế giới rất tối tăm. Và người ta muốn chúng ta phải im đi. Và chính chúng ta cũng hổ thẹn không dám kêu to.

Và những lúc đó, chúng ta phải có can đảm và sự khiêm nhường để kêu to cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con được thấy”. Đức Giêsu là Đấng đưa chúng ta từ bên lề vào bên trong. Người nói với chúng ta rằng chúng ta quý giá đối với Chúa Cha. Người cho chúng ta một chỗ ngồi ở bàn tiệc nước trời.

Người muốn chúng ta làm cho người khác điều mà Người đã làm cho Bác timê. Chúng ta không được thờ ơ với một người cô độc và để họ ở bên lề. Nhưng với lòng yêu thương, sự chăm sóc, thời gian, chúng ta phải đem một ánh sáng nhỏ vào trong một thế giới của bóng đêm.

 

54. Cứ xin sẽ được, cứ gõ sẽ mở cho…

(Suy niệm của Lm. Joseph Vũ Mộng Thơ)

Cả ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay đều có thể áp dụng không ít thì nhiều trong cuộc sống hằng ngày của người Việt tha hương chúng ta.

Bài đọc 1: Lời Chúa qua miệng tiên tri Giêrêmia: “Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về… có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con… họ vừa đi vừa khóc…” nhưng là khóc trong vui mừng và tưởng như trong giấc mơ. Như chúng ta đã biết là không một ai muốn sống xa quê hương xứ sở của mình lâu ngày vì mỗi người đều có nơi “chôn nhau cắt rốn”, có làng mạc, có quê hương, có quê cha đất tổ. Dù cho là lên tỉnh học, tu nghiệp hay du học nước ngoài thì cũng mong có ngày trở về làng cũ thăm lại quê cha cũng như họ hàng láng diềng. Nếu không là vinh qui bái tổ thì ít lắm cũng gây dựng được sự nghiệp gì đó để làm nở mày nở mặt gia đình và cả dòng họ cha mẹ mình nữa. Còn dân Israel xưa bị đầy biệt xứ và làm nô lệ cho nước Babylon trong tủi nhục và lao động cực khổ cả ngày đến độ không còn có thì giờ để tế lễ cho Chúa cũng giống như người Việt tha hương chúng ta hôm nay bị đầy biệt xứ vì tự do: tự do nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do báo chí và bình luận… Chúng ta ước mong có một ngày trở về trong thanh bình, trong no ấm và hoàn toàn tự do. Là con cháu Lạc Việt, chúng ta sẽ cất cao giọng hát hòa bình để ca tụng Thượng đế xưa đã không bỏ rơi Dân Người thì nay chẳng chóng thì chầy Ngài cũng giải thoát con dân Việt Nam chúng ta khỏi cảnh lưu đầy biệt xứ này. Hãy tin tưởng, hãy nguyện cầu… cho quê hương và cho Giáo Hội Việt Nam.

Bài đọc 2: Thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta là “các vị thượng tế được chọn giữa loài người… người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy.” Nhiều giáo dân không thể nào (tưởng tượng) hay chấp nhận các linh mục hay các vị chủ chăn của mình có khuyết điểm nọ kia. Thực ra nếu đã là người thì ai ai cũng đều có ưu hay khuyết điểm mặc dù các ngài được nhiều ơn Chúa để dẫn dắt con chiên tránh những dịp tội. Nếu có khi vấp phạm thì cũng có nhiều ơn trên để chóng trở lại với Chúa hơn. Cả hai xét đoán tiêu cực này đều không tốt: một là thần tượng hóa các ngài (coi như không thể nào vấp ngã) hoặc khi các ngài vấp phạm thì kết án gắt gao và có khi lấy làm vấp phạm (bỏ đạo) nữa. Có người hỏi tôi: “các cha có phải đi xưng tội hay không?” Đáp: “Có chứ, vùng chúng tôi ở đây thường thì các cha xưng tội ba tháng một lần, cũng có khi một tháng một lần… với những các cha khác.” Bởi vì tất cả chúng ta không ít thì nhiều đều là những con người dòn mỏng, yếu đuối dễ sa ngã… nhưng điều này không quan trọng bằng việc nhận biết mình để xin Chúa thứ tha và khi chúng ta trong sạch với lương tâm mình và với Chúa thì chúng ta có khả năng lãnh nhận ơn Chúa và nghị lực dồi dào hơn để thăng tiến và giúp đỡ người khác tích cực hơn.

Bài đọc 3: Chúa chữa người mù thành Giêricô

Anh chàng mù này không như thời đại chúng ta là có xã hội chăm sóc mà anh ta phải đi ăn xin thì mới có ăn, lại thế hồi đó người ta còn tin rằng “bệnh hoạn” là hình phạt của Thượng đế… cho nên anh bị dân chúng và xã hội hất hủi khinh miệt. Nhưng Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi những người kêu cầu đến Chúa và nhất là tin tưởng nơi tình yêu thương của Ngài. Cho dù đám đông nói anh ta “im miệng” lại vì nơi chốn đông người này làm gì mà Chúa nghe thấy, và lại bao nhiêu người đang cần đến Ngài thì đừng nên làm rộn người khác. Nhưng anh ta vẫn không nản lòng vì anh tin rằng thế nào Chúa cũng thương đoái đến anh… mà thật thế, Chúa Giêsu dừng lại, truyện vãn với anh và Ngài còn khen anh có một đức tin mạnh mẽ không sờn lòng trước nghịch cảnh.

Xin Chúa cho chúng ta có được đức tin như anh này dù chúng ta cứ tưởng như Chúa ít khi nghe lời chúng ta khấn xin nhưng Chúa nói: “Cứ xin sẽ được, cứ gõ sẽ mở cho…”.

 

55. Người tàn tật.

Đoạn Tin Mừng của thánh Marcô kể chuyện Chúa Giêsu cứu chữa một người mù có thể gợi lên vài suy nghĩ

Ở đời chúng ta thấy có nhiều người tàn tật: Có người thì mù, có người thì què, có người thì câm, có người thì rối loạn thần kinh… Trong số họ, có những kẻ bị tàn tật vì do một tai nạn, nhưng cũng có rất nhiều người bị tàn tật như thế ngay từ lúc mới sinh.

Đứng trước những người tàn tật ấy, người ta có thể có nhiều thái độ khác nhau: trẻ con thì vô tâm đến tàn nhẫn và chọc ghẹo những người đó “1,2,3 thằng cha bán kẹo què giò, còn một giò đi kéo xe lôi”; những kẻ có lòng hơn thì không lỡ chọc ghẹo nhưng ngậm ngùi tội nghiệp thông cảm; người thân của kẻ tàn tật thì đau khổ xót thương: năm 1962, tại thành phố Liège nước Bỉ có một bà mẹ sinh ra một đứa con hình dáng không ra con người mà là giống như một con vật. Bà đau đớn quá và giết chết đứa con ấy. Người ta đem bà ra tòa vì tội giết con. Nhưng tòa án tha bổng vì thông cảm với nỗi đau khổ của bà và nỗi đau khổ của đứa con ấy nếu nó sống và phải gánh chịu. Nhưng ngoài những thái độ chọc ghẹo, tội nghiệp và thương xót đó, người tín hữu chúng ta còn có thể có suy nghĩ nào hơn nữa không? Thưa có, đó là suy nghĩ về cuộc đời và những bất công của cuộc đời. Cuộc đời này quả thực có nhiều bất công: có người sinh ra thì mạnh khỏe xinh đẹp, có người sinh ra thì tàn tật xấu xí. Có kẻ sinh ra đã nằm sẵn trong một gia đình giàu có, địa vị; còn có kẻ sinh ra nhằm một gia đình cơ cực túng thiếu. Một người vừa mới sinh ra đã mạnh khỏe, thông minh và thuộc một gia đình giàu có thì hầu như sẽ rất dễ thành công trong đời; còn một người sinh ra mà tàn tật, ngu đần lại nghèo khổ nữa thì rất khó mà ngóc đầu lên được. Thử hỏi những kẻ xấu số đó bản thân của họ có làm gì nên tội mà phải gánh chịu những thiệt thòi như vậy? Họ không có tội nhưng họ phải chịu thiệt thòi, đó là một sự bất công.

Mà bất công thì đòi hỏi phải sửa lại cho công bằng. Nhưng có những trường hợp không thể sửa lại cho công bằng được. Chẳng hạn trường hợp cái quái thai do bà mẹ người Bỉ kia sinh ra, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Bà mẹ ấy đã giết nó chết đi, như thế có phải là công bằng không? Chắc chắn là không. Còn nếu không giết chết nó thì phải nuôi sống nó, nuôi thật chu đáo, đầy đủ, cưng chiều nó đủ thứ, nhưng như thế có phải là công bằng chưa? Cũng chưa vì chăm sóc chiều chuộng bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là xoa dịu phần nào những đau khổ của nó mà thôi, chứ không thể nào bù đắp được những thiệt thòi cho nó bằng một người bình thường không tàn tật. Bất công cũng vẫn còn là bất công thôi.

Nhưng chính những cái bất công ở đời này và sự bất lực không tạo được sự công bằng ở đời này đã giúp cho chúng ta tin rằng phải có một thế giới công bằng ở đời sau. Bởi vì nếu tất cả đều kết thúc ở đời này thì thật là chua xót quá đối với những kẻ xấu số tàn tật, thà họ không được sinh ra còn hơn. Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên họ không thể nào tàn nhẫn quá đến nỗi tạo ra họ chỉ là để cho họ chịu khổ đau. Vì thế mà chắc chắn phải có một cõi đời sau, khi đó mọi bất công sẽ không còn, những thiệt thòi sẽ được bù đắp xứng đáng, và công bình sẽ được thực hiện trọn vẹn.

Đó là ý nghĩa của những lời cầu nguyện đầy tin tưởng mà những kẻ xấu số đã kêu lên trong thánh vịnh 125: “Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận cho con, như những dòng suối ở miền Nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan”. Mà cũng là ý nghĩa lời hứa hẹn ngầm của Chúa Giêsu khi ra tay cứu chữa anh Bartimê khỏi bị mù trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là điều mà tiên tri Giêrêmia tiên báo trong bài thánh thư hôm nay “Ta sẽ lấy lòng từ bi mà dẫn dắt những kẻ đui mù què quặt…”

Tóm lại, những cảnh bất công ở đời vừa làm cho lòng ta thương cảm, mà cũng vừa giúp chúng ta tin chắc rằng phải có một cõi đời sau, công bằng hơn, hoàn hảo hơn và hạnh phúc hơn. Ở đời này có một số bất công mà con người không thể nào bù đắp cho công bằng được, như tàn tật chẳng hạn.

Nhưng chính các bất công không bù đắp được mới khiến loài người mơ tới một cõi đời khác sẽ không còn bất công.

Và qua phép lạ cứu chữa một người mù, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền năng Thiên Chúa có thể tạo ra một cõi đời như thế.

Như vậy phép lạ này là một bằng chứng về cõi đời sau. Đó là niềm tin của người Công giáo chúng ta.

 

56. Suy niệm của JKN.

Thái độ của người theo Chúa trước cảnh bất công, cùng khốn của đồng loại

Câu hỏi gợi ý:

  1. Thái độ của người mù trong bài Tin Mừng là la to lên để Đức Giêsu nghe thấy, và khi bị quát nạt, anh lại càng la to hơn nữa. Đó có phải là thái độ khôn ngoan không? Những kẻ cùng khốn có thể rút ra bài học gì không?
  2. Cảnh người mù kêu cứu mà bị quát nạt có gì tương tự với những cảnh đang xảy ra trong xã hội hôm nay không? Tại sao lại có người quát nạt anh? quát nạt anh để làm gì?
  3. Những người theo Đức Giêsu cần có thái độ nào trước cảnh người cùng khốn kêu cứu mà bị quát nạt? Im lặng mặc kệ họ hay kêu cứu dùm họ?

Suy tư gợi ý:

  1. Người mù lên tiếng kêu cứu và bị quát nạt

Trên trần gian này, có biết bao người cùng khổ như anh chàng Batimê trong bài Tin Mừng trên. Anh bị mù, không làm được việc gì để sinh sống, nên đành phải đi ăn xin. Đời anh thật khốn khổ, nên khi nghe tin Đức Giêsu – người nổi tiếng chữa lành bằng phép lạ – sắp đi qua, anh kêu to lên xin Ngài cứu chữa. Đó quả là nhu cầu vô cùng chính đáng của anh. Nhưng những người Pharisêu – những kẻ không muốn Đức Giêsu có ảnh hưởng trong xã hội vì lời giảng dạy và những phép lạ của Ngài – đã dọa nạt anh, bịt miệng anh để anh im đi. Họ sợ Ngài có thêm cơ hội làm phép lạ khiến Ngài nổi tiếng và có ảnh hưởng trên dân chúng nhiều hơn. Họ muốn độc quyền ảnh hưởng trên dân chúng. Đáng lẽ anh mù phải sợ những người Pharisêu này, vì họ có quyền thế về tôn giáo. Họ có thể «dứt phép thông công» anh (nói theo kiểu hiện đại cho dễ hiểu), khiến anh bị cô lập giữa những người đồng đạo, và đời anh đã khốn khổ sẽ vì thế lại càng khốn khổ hơn.

Nhưng sự cùng khốn của anh khiến anh không còn sợ gì nữa, anh quyết tranh đấu cho nhu cầu chính đáng của mình. Vì thế, anh càng la to hơn để Đức Giêsu nghe thấy. Nhờ kiên quyết tranh đấu, anh đã toàn thắng kẻ cố tình bịt miệng anh: Đức Giêsu nghe thấy tiếng anh kêu, đã đến với anh và chữa anh lành bệnh. Anh đã «nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi».

  1. Người cùng khốn đang bị áp bức, bị bịt miệng, bịt tai

Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một cách thu gọn cảnh áp bức bất công vẫn thường xảy ra trong xã hội. Những người nghèo khổ, thấp cổ bé họng, không có tiếng nói như anh Batimê luôn luôn phải chịu cảnh áp bức: bị bịt miệng không cho phát biểu, bị bịt mắt không cho thấy, bị bịt tai không cho nghe những diễn biến đang xảy ra trong xã hội. Vì càng để họ ở trong cảnh dốt nát mù mịt thì kẻ nắm quyền càng dễ bề áp bức, hà hiếp, bóc lột họ. Để họ biết nhiều quá, nắm thông tin nhiều quá, nhất là để họ biết được quyền lợi của họ, hay biết được những thối nát, ngu xuẩn, bất công của những kẻ đang cầm quyền, thì khó mà duy trì ách thống trị trên họ mãi. Vì thế, tất cả những kẻ cầm quyền áp bức trên thế gian này đều muốn bưng bít thông tin, trấn áp dư luận, tìm cách bịt miệng tất cả những ai muốn nói, bịt tai tất cả những ai muốn nghe. Họ chỉ cho phép những gia nô của họ bốc thơm, nâng bi họ, bất chấp những tồi tệ ngu xuẩn của họ. Và chỉ cho phép đám dân ngu cu đen nghe những lời tán tụng giả dối ấy, để đám dân này ảo tưởng rằng mình đang được sống trên thiên đàng, và để họ coi bọn cầm quyền là ân nhân của họ.

Trong bài Tin Mừng, nếu anh mù Batimê mà sợ oai sợ vía bọn Pharisêu, mà im lặng trước sự quát nạt của họ, thì rất có thể anh sẽ không gặp được Đức Giêsu, anh sẽ không được chữa lành, và anh sẽ phải sống trong tăm tối suốt cả cuộc đời. Nhưng anh đã can đảm không sợ hãi, và sự can đảm ấy đã giải phóng anh! Sự can đảm ấy đã được Đức Giêsu chúc lành. Anh đáng làm gương cho chúng ta về lòng can đảm, về tinh thần tranh đấu cho nhu cầu và quyền lợi chính đáng của mình. Những kẻ nhát sợ trước bạo lực, không dám lên tiếng tranh đấu cho quyền lợi chính đáng của mình, đành chấp nhận làm thân giun dế, thật đáng xấu hổ trước tấm gương can đảm này.

  1. Các ngôn sứ hãy lên tiếng thay cho kẻ không có tiếng nói

Cái cảnh quát nạt không cho người mù lên tiếng như trong bài Tin Mừng hôm nay vẫn đang hằng ngày xảy ra trong xã hội con người. Nhưng có biết bao người khốn khổ, bị hà hiếp, đàn áp như thế không có khả năng hay dũng khí để gào to lên như anh mù trong bài Tin Mừng. Họ sợ bị ám hại, họ không có miệng để kêu, hoặc không biết kêu với ai… Tội nghiệp những con người ấy biết bao! Ai sẽ lên tiếng thay cho họ?

Thật may mắn cho họ, Đức Giêsu đã đến với sứ mạng «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn (…) trả lại tự do cho người bị áp bức» (Lc 4,18). Ngài có cả một đạo quân tiếp nối sứ mạng của Ngài, đạo quân của những người tận hiến đời mình để theo Ngài. Sứ mạng của họ được sách Châm Ngôn mô tả: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng xét xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9). Isaia cũng mô tả sứ mạng của họ: «Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ» (Is 1,17).

Giữa xã hội, hiện đang có cả một đạo quân hùng hậu gồm những người mang danh theo Đức Giêsu, thường tự hào mình tiếp nối sứ mạng của Ngài, tự hào mình là ngôn sứ, khiến những kẻ cùng khốn trong xã hội đặt biết bao hy vọng nơi họ. Nhưng tiếc thay, nhiều khi đạo quân đông đảo này lại sẵn sàng cùng nhau câm lặng trước những cảnh áp bức, đau thương, những cảnh ngang trái đầy bất công của xã hội… Ơi, phải chi những người ấy đừng vỗ ngực xưng tên mình là môn đệ Đức Giêsu, là người theo Ngài, là ngôn sứ của Ngài thì chẳng ai phiền trách họ về sự câm lặng ấy! Và chẳng ai thèm hy vọng nơi họ để khỏi phải thất vọng! Xưng mình là ngôn sứ mà chẳng làm công việc của ngôn sứ thì còn chính danh gì nữa? còn chân thật gì nữa! Thiên Chúa sẽ xét xử ra sao những người đang vui hưởng vinh quang của các ngôn sứ, nhưng lại muốn trốn tránh nhiệm vụ ngôn sứ?

  1. Thái độ của người Pharisêu

Bọn Pharisêu trong bài Tin Mừng không muốn anh Batimê la to lên để Đức Giêsu nghe thấy mà chữa lành cho anh. Đối với họ, cảnh mù lòa xin ăn, sự khốn cùng của anh chẳng có gì đáng để họ bận tâm. Lòng họ đã ra chai đá rồi! Họ không muốn anh được chữa lành, khi mà việc ấy không thuận lợi cho sự độc quyền ảnh hưởng của họ trên dân chúng. Họ sợ bị mất ảnh hưởng hơn sợ dân chúng phải đau khổ. Vì thế, họ muốn bịt miệng anh, không muốn anh nói lên sự cùng quẫn của anh. Là những người lãnh đạo tinh thần trong dân chúng, đúng ra họ phải lên tiếng nói thay cho dân, nhất là cho những kẻ đang bị cùng quẫn vì áp bức. Đằng này họ lại muốn bịt miệng người dân lại khi người dân lên tiếng. Là lãnh đạo tinh thần, đúng ra họ phải đặt quyền lợi người dân lên trên quyền lợi của họ. Đằng này, họ lại đặt quyền lợi của họ trên quyền lợi của dân.

Thấy thái độ của họ đối với dân chúng như vậy, Đức Giêsu đã dùng hình ảnh «kẻ chăn thuê» để nói về họ: «Kẻ chăn thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên» (Ga 10,12-13).

Ước gì những người lãnh đạo tinh thần thời nay không giống như các Pharisêu xưa, mà giống như Đức Giêsu, để vị nào cũng có thể nói được như Ngài: «Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên» (Ga 10,11). Amen.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, cảnh người mù kêu cứu bị quát nạt vẫn hằng xảy ra trong thế giới hôm nay. Là những người theo Đức Giêsu, nhưng chúng con chẳng muốn làm theo Ngài. Chúng con chẳng muốn quan tâm tới những người nghèo khổ, những kẻ bị áp bức bất công như Ngài vẫn luôn quan tâm. Chúng con chỉ thích bắt chước những người Pharisêu, đặc biệt quan tâm tới những nghi thức tôn giáo, những hình thức đạo đức bên ngoài, những luật lệ… Có phải chúng con thiếu đức tin và nghèo tình thương không? Xin Cha đừng để chúng con ảo tưởng mình đầy đủ đức tin chỉ vì chúng con đang làm thầy dạy về đức tin, hay tưởng mình giàu tình thương chỉ vì chúng con đang rao giảng về đức ái. Sự sợ hãi hằng trấn áp chúng con chứng tỏ đức tin của chúng con còn rất yếu kém. Sự lãnh đạm với những người nghèo khổ chứng tỏ tình thương của chúng con còn rất nghèo nàn. Lạy Cha, xin thêm đức tin và tình thương cho chúng con.

 

57. Xin cho con được thấy – Lm. Minh Vận.

Tại Việt Nam, trong một giáo xứ nọ, có một bà người ta quen gọi tên là “Con Mẹ Mướp”. Bà ta dữ như “sư tử hà đông” hay còn được ví như một “bà chằng”. Tại sao vậy? Là vì bất cứ ai làm gì bà cũng chê, cũng tìm đủ lý lẽ để bắt bẻ, để hạch xách; ngay cả chồng bà, bà cũng không kính nể; con cái, cháu chắt trong nhà, bà cũng luôn miệng la mắng, khiến trong gia đình lúc nào cũng luôn cảm thấy một bầu không khí căng thẳng, nghẹt thở. Gia đình mất hẳn tình thương yêu đầm ấm thuận hòa. Vợ chồng thiếu tình yêu đương âu yếm tôn trọng nể vì nhau; cha mẹ luôn càu nhàu cãi cọ nhau, la rầy mắng nhiếc nhau; làm nên gương xấu, khiến con cái mất lòng hiếu thảo, tôn kính phải có đối với bậc sinh thành ra mình.

Cuối cùng, bà ta cũng bất mãn cả với chính mình và trở thành con người bất bình thường; luôn nổi cơn cáu kỉnh, làm cho mọi người phải chán ghét xa tránh bà, khiến bà trở nên cô độc, gia đình bà trở thành như một hoang đảo, không ai thèm lai vãng thăm hỏi.

Vì cảm thấy mình bị lẻ loi và bị mọi người chán ghét, cũng giật mình; bà đi tìm một bác sĩ phân tâm để chữa cái bệnh “cáu kỉnh” cho bà. Nhưng ông bác sĩ cũng phải bó tay hàng phục, chẳng sao chữa trị cho bà được.

  1. ĐỨC TIN CỦA CON ĐÃ CHỮA CON

Một buổi sáng Chúa Nhật, bà có tên là “Con Mẹ Mướp” đi dự lễ và nghe bài Tin Mừng tường thuật câu truyện Chúa chữa người mù từ mới sinh mà chúng ta vừa nghe. Câu truyện đó làm cho bà bừng tỉnh và xúc động khác thường, khiến bà rưng rưng giọt lệ, tự cảm thấy mình cũng bị mù lòa, không nhìn ra được cái hay cái tốt, cái ưu điểm nơi tha nhân. Thế rồi, được ơn Chúa đánh động, bà quyết tâm sửa đổi thái độ và nhờ ơn Chúa trợ giúp bà đã thành công. Bà đã trở nên một người đàn bà thùy mị, vui vẻ, lạc quan và dễ thương với hết mọi người. Gia đình bà đã trở nên một tổ ấm yêu đương, thuận hòa, hạnh phúc, đến nỗi khiến mọi người phải thán phục, khen ngợi, kính nể và coi đó như một mẫu gương phải noi theo bắt chước.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã làm phép lạ chữa anh chàng bị mù từ mới sinh, bởi anh đã đặt niềm tin vững mạnh nơi Chúa, như chính lời Chúa đã phán với anh: “Đức tin của con đã chữa con”. Chính vì Đức Tin đó, mà không những Chúa đã chữa anh khỏi bệnh mù lòa phần xác mà còn chữa anh khỏi cả bệnh mù lòa phần linh hồn, là cho anh được ơn nhận biết Chúa, hiến thân theo Chúa để suốt đời phụng sự và yêu mến Người.

  1. BỆNH MÙ CỦA NGƯỜI THỜI NAY

Giữa một thế giới văn minh khoa học tiến bộ ngày nay mà vẫn còn nhiều người mắc chứng bệnh mù lòa, không sao nhận ra ánh sáng, họ phải mò mẫm trong bóng tối; không thưởng thức được những vẻ đẹp của thiên nhiên, những cảnh uy hùng của vũ trụ, những kỳ công kiệt tác của Đấng Tạo Hóa… Đó chính là cái bệnh mù lòa tinh thần. Bệnh mù lòa phần xác dù có cực khổ thế nào đi nữa, cũng chưa thấm vào đâu với nỗi khổ của cái bệnh mù lòa tinh thần. Biết bao nhà thông thái, biết bao triết gia, khoa học gia, chính trị gia là những kẻ tự hào cho mình là thông thái khi đề ra những triết thuyết làm lẽ sống cho con người; đã sáng nghĩ ra được máy móc tối tân để chinh phục không gian, để canh tân đời sống; đã chế tạo ra được những khí giới tối tân để tác oai tác quái nhằm tiêu diệt đối phương, đe dọa sự sống còn của các dân tộc.

Khi chữa cái bệnh mù phần xác cho anh chàng mù từ mới sinh trong Tin Mừng, Chúa cũng muốn cứu chữa cái bệnh mù lòa tâm hồn cho con người, để họ được diễm phúc nhận biết, tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa hầu được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, là thứ hạnh phúc con người phải khát khao và nỗ lực tìm kiếm.

III. XIN CHO CON ĐƯỢC XEM THẤY

Với niềm tin tưởng, chúng ta hãy khiêm tốn chân nhận sự mù lòa, sự nghèo nàn, hữu hạn thiếu thốn của mình và tha thiết nài xin Chúa cho chúng ta được ơn xem thấy, để chúng ta biết:

Nhận ra Chúa nơi tha nhân, nhận ra Chúa nơi anh chị em chúng ta, nhận ra những điểm hay điểm tốt nơi tha nhân, để biết tôn trọng kính nể họ. Xin cho chúng ta biết nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác của Người, để chúng ta biết dâng lời chúc tụng ca ngợi Đấng Tạo Hóa muôn loài. Xin cho chúng ta biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa, để chúng ta biết tôn kính, vâng phục, hiếu thảo với các vị theo thánh ý Chúa.

Nhất là xin cho chúng ta biết chân nhận thân phận thụ tạo của mình là phải hoàn toàn lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; biết nhìn nhận ra những ơn phúc do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để luôn biết dâng lời cảm tạ Chúa, biết tôn thờ, phụng sự và hết lòng kính mến Chúa, xứng với nghĩa vụ là một tôi trung, con thảo của Người.

Kết Luận

Chớ gì chúng ta được ơn nhận ra Chúa luôn luôn, nhận ra Chúa nơi mọi người, nhận ra Chúa nơi mọi thụ tạo, nhận ra Chúa nơi mọi hoàn cảnh của cuộc sống, trong mọi biến cố Chúa để xảy đến dù may hay rủi, dù xuôi thuận hay bất trắc; nhận ra Chúa nơi mọi kỳ công Người sáng tạo bằng một Đức Tin sống động và kiên vững, để luôn hết lòng thuần phục Chúa trong mọi sự, bằng một tình con thảo hằng biết yêu mến làm hài lòng Cha.

 

58. Đức Giêsu chữa lành người mù ở Giêrikhô

(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Mc 8,22-26 kể truyện một người mù được dẫn đến gặp Đức Giêsu, được Người chữa lành tiệm tiến, và được yêu cầu giữ kín việc này; trong 10,45-52, Báctimê tự mình tích cực tìm Đức Giêsu, được chữa lành ngay và trở thành môn đệ trên đường. Truyện thứ hai này, cùng với câu truyện thứ nhất, đóng khung một đơn vị văn chương, nhưng cũng cho thấy một sự tiến bộ trong đức tin. Truyện này có thể được coi như một truyện về chữa lành hoặc một truyện về ơn gọi. Truyện này còn là một lời khuyến khích các môn đệ đang đi theo Đức Giêsu mà không hiểu gì hết, lòng trĩu nặng kinh hoàng.

Hai đoạn 8,22-26 và 10,45-52 là những bài tường thuật có vai trò chuyển mạch. Hai đoạn này đưa độc giả đến một lời tuyên xưng công khai vào tư cách Mêsia của Đức Giêsu: đức tin vào tư cách Mêsia giả thiết có biến cố Khổ Nạn. Trong viễn tượng đối thần này, việc Đức Giêsu mở mắt có giá trị một dấu chỉ.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (10,46);

2) Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (10,47-50);

3) Đỉnh cao của bài: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (10,51-52).

3.- Vài điểm chú giải

– con đường (hê hodos) (46): Chúng ta đang ở trong phân đoạn trọng tâm Trên đường (x. Bố cục). Mc 10,32 ghi: “Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem. Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi”. Đề tài này với tất cả những gì liên hệ đến (tiến bước, dừng chân…) càng nổi bật trong 10,46-52: họ (các môn đệ, đám đông và Đức Giêsu) đến Giêrikhô. Nhưng rồi Giêrikhô cũng chỉ là một chặng trên “con đường” (“Khi Đức Giêsu … ra khỏi Giêrikhô”).

– môn đệ: Xem ghi chú ở 2,18. Các môn đệ (mathêtai) đi theo Đức Giêsu được phân biệt với đám đông tổng quát hơn (8,34; 9,14). Khi ghi nhận những lần tác giả sử dụng từ “đám đông” (ochlos), chúng ta có thể khẳng định rằng, cũng như các tác giả Tin Mừng khác, Mc ghi nhận sự hiện diện thường xuyên của đám đông. Trong một vài đoạn, ngài còn ghi là đám đông đi theo Người (3,20; 5,24; 8,2; x. plêthos ở 3,7 và polloi ở 2,15). Tuy nhiên, trong phân đoạn 8,27–10,52, hiếm khi Đức Giêsu ngỏ lời với đám đông. Trước 10,46, đám đông xuất hiện ở 9,14 và 10,1 (lần duy nhất ochloi ở số nhiều). Trong chuyến đi về Giêrusalem, Đức Giêsu săn sóc đặc biệt các môn đệ. Thông thường, khi cứu xét ngữ cảnh, ta có thể giả thiết là các đám đông là những người phát xuất từ vùng Đức Giêsu đi ngang qua (10,1). Trong trường hợp 10,46, vì đã gần lễ Vượt Qua, ta có thể nghĩ đến những người hành hương đang cùng đi với nhau tiến về thành thánh. Dù sao, Mc đã không quan tâm ghi chú lý do vì sao đám đông ra khỏi Giêrikhô với Đức Giêsu và các môn đệ Người.

– Báctimê: Báctimê là phiên âm cụm từ A-ram bar timay, có nghĩa là “con ông Timê”.

– một người hành khất mù, đang ngồi ở vệ đường: So với hành động của anh mù được kể ở c. 52 (“đi theo”), câu này cho thấy vị trí đầu tiên của Báctimê hoàn toàn ngược lại: “đang ngồi ở vệ đường” (para tên hodon). Đây là một tư thế cố định được coi như vĩnh viễn (thì vị hoàn của động từ ekathêto). Đã thế, anh lại là người hành khất (prosaitês) và bị mù. Tư cách hành khất diễn tả sự cố định, còn sự mù loà diễn tả sự xa cách. “Bên vệ đường” có nghĩa là “ở bên ngoài đường”. Như vậy, Báctimê ở trong thế bị loại trừ, cố định, xa cách người khác.

– Vừa nghe nói là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên (47): Đám đông can thiệp nhiều lần. Lần đầu tiên, họ cho biết đó là “Đức Giêsu Nadarét” (c. 47). Báctimê nhận thông tin này bằng thính giác (“đã nghe”): vì mù loà nên xa cách. Nhưng có sự gần gũi: Giêsu người Nadarét là một con người; và hình như anh cũng đã được thông tin về Người rồi. Tuy nhiên, sự gần gũi này cũng chưa giúp gì cho anh. Anh kêu lên (vì xa cách): “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Đáng ngạc nhiên là đám đông chỉ giới thiệu Đức Giêsu như một con người (“người Nadarét”), mà anh này lại kêu cầu Người bằng một danh hiệu của Đấng Mêsia (“con vua Đavít”). Dù sao, truyền thống Do-thái chờ đợi Đấng Mêsia nhà Đavít đến giải phóng dân Ít-ra-en và can thiệp để cứu độ, chứ không chờ Người chữa bệnh. Do đó, nhiều nhà chú giải cho rằng Mc đã đặt vào miệng anh mù một lời cầu khẩn của Kitô giáo. Đức Giêsu còn ở xa anh, vừa về không gian vừa do tư cách, nên anh phải kêu để mong gặp Người. Lời kêu này đã giúp anh vượt qua khoảng cách đó để gặp được Đức Giêsu.

– nhiều người quát nạt… anh càng kêu lớn (48): Bây giờ, đám đông đã trở thành một trở ngại thật đáng kể; nhiều người muốn bắt anh im đi. Trong các Tin Mừng, sáng kiến đi đến với Đức Giêsu không bao giờ phát xuất từ dân chúng hay các môn đệ. Ở đây, chính sự ngăn cản của họ trở thành một thử thách cho đức tin của anh, nhưng anh càng kêu to hơn. Danh Giêsu đã biến khỏi công thức khẩn cầu, chỉ còn lại danh hiệu “con vua Đavít”.

– Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (49): Người cắt ngang cuộc tiến bước. Khi làm như thế, Người tách khỏi những kẻ đang ở với Người trên cùng một con đường, Người phá vỡ một sức năng động mà Người đã phát động và lôi kéo. Lời Người nói chứng tỏ giữa Người và anh mù, có một khoảng cách, và đám đông đang ở tại vị trí này. Hành vi cắt ngang chuyến đi của Đức Giêsu tạo ra một hậu quả bất ngờ: người mù vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu, y như thể anh không bị mù.

– anh mù: Đáng lưu ý là Báctimê được gọi là “anh mù” (ho typhlos:cc. 49 và 51) sau khi Đức Giêsu can thiệp. Nếu tác giả Mc chỉ gọi anh là “anh mù”, phải chăng ngài muốn nói rằng anh không “hành khất” nữa?

– vất áo choàng: Tấm áo choàng (himation: “áo”; “áo choàng”) có thể là y phục nói chung (2,21; 5,28-30; 9,3; 15,20.24), nhưng ở đây có thể là tấm vải dùng như áo choàng (5,27; 6,56; 11,7.8; 3,16) mà một người nghèo có thể dùng làm mền đắp (Xh 22,25-26; Đnl 24,13), còn anh mù có thể trải ra trước mặt mà nhận các món bố thí (những người hành khất Đông phương thường làm như thế). Hành vi “vất (apobalôn) áo” có thể là cách diễn tả một sự hứng khởi tột độ; nhưng dựa theo ý nghĩa của động từ ấy, có thể nói hầu chắc là anh mù làm một hành vi từ bỏ dứt khoát. Ý nghĩa chính của động từ này là “vất đi, quẳng ra sau (với sức mạnh)” và “bỏ lại bằng cách quăng ra” (Đnl 26,5 LXX) hoặc “đánh mất” (Is 1,30 LXX; Dt 10,35)[1]. Anh mù đã làm một động tác dứt khoát, nhằm bỏ cái áo đi. Hành vi này chứng tỏ một sự liều lĩnh của anh mù, nhưng cũng cho thấy anh hết sức tin tưởng vào sự trợ giúp của Đức Giêsu và không muốn để cho ngay cả một vật cần thiết cho cuộc sống gây cản trở cho mình. Cũng có thể coi động tác ấy có ý nghĩa biểu tượng là từ bỏ chính mình (8,34-35), cắt đứt với quá khứ (1,18.20; 10,28).

– đứng phắt dậy (50): Động từ anapêdaô là một hapax legomenon (từ dùng một lần) trong Tân Ước, và ngày cả trong LXX cũng không được dùng thường xuyên (7 lần). Từ này mô tả động tác “nhảy lên” theo cách cương quyết và bất ngờ (Tb 6,2) thường từ thế ngồi (1 Sm 20,34; Tb 2,4; 7,6; Et 5,1e) và vì sự phấn khích (Et 5,1e: “lo âu lao mình xuống”, agôniasas anepêdêsen). Trong những đoạn khác, Mc diễn tả hành vi “trỗi dậy” bằng động từ egeirô quen thuộc hơn (2,12; 4,27; 13,8.22; 14,27). Theo lời mời egeire (“Hãy đứng dậy!”) của Đức Giêsu ở 2,11 và 5,41, phản ứng đáp lại được mô tả cũng bằng động từ egeirô hoặc anistêmi (5,42; 9,27). Nếu chúng ta nhớ sự tương ứng của egeirô-anistêmi ở 5,41-42 và nhớ rằng ở 2,14, anastas mô tả sự đoạn tuyệt với cuộc sống đã qua nhằm đi theo Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là, trong một ngữ cảnh nói về việc kêu gọi, động từ anapêdaô diễn tả mạnh mẽ hơn một sự sẵn sàng đáp lại lời mời gọi.

– đến: Đọng từ này mở đầu bài tường thuật dành cho đám đông (c. 46: “Đức Giêsu và các môn đệ đến”), nay được dành riêng cho anh: êlthen, ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi duy nhất, quyết liệt.

– Anh muốn tôi làm gì cho anh? (51): Đức Giêsu lưu tâm đến cá nhân anh mù. Người đã cho gọi anh đến như cho vào một cuộc tiếp kiến; bây giờ Người hỏi về điều anh muốn khiến ta nhớ lại 10,36: Đức Giêsu xử sự như Đấng có vương quyền.

– Thưa Thầy: Trong bản văn Hy-lạp, ta đọc là Rabbouni; đây là từ A-ram đã không được dịch ra hy-ngữ, tăng cường từ Rabbi (“đức ông”, “ngài”).

– Anh hãy đi: Đức Giêsu đã ban cho anh được thấy, như là một dấu chỉ của đức tin (“Lòng tin của anh đã cứu anh”).

– anh đi theo Người trên con đường (52): Động từ êkolouthei ở thì vị hoàn hàm ý một sự tiếp diễn: tiếp diễn trong chuyển động. Bởi vì đây là việc bước đi “trên đường”, nhưng cũng là trong sự gần gũi, bởi vì người ta bước theo sau một ai đó. Ý tưởng cốt lõi ở đây là sự hiện diện vĩnh viễn “trên đường”. Anh trở thành môn đệ (“bước theo”).

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (46)

Trong chuyến đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu và nhóm các môn đệ đến Giêrikhô, thành phố cây chà là, cách Giêrusalem 23 cs về phía đông bắc, nằm ở 250m dưới măt biển, tại một ốc đảo trong vùng trũng bên sông Giođan. Giêrikhô Tân Ước ở về phía tây nam của “Giêrikhô của vua Hêrôđê”, nơi vị vua này đã xây một hoàng cung rộng lớn. Khác với TM Lc (18,35–19,10), ở đây Đức Giêsu và đoàn người đã không dừng lại Giêrikhô; cả đoàn đang đi ra khỏi thành thì gặp anh hành khất mù Báctimê. Vị trí của hai bên là hai vị trí không thể gặp nhau: Đức Giêsu và các môn đệ cùng đám đông thì đang di chuyển trên đường; anh mù thì đang ngồi ở vệ đường.

* Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (47-50)

Đáng ngạc nhiên là đức tin của anh mù “ngồi ở vệ đường”, tức lâu nay không “đi theo” Đức Giêsu, lại có phần sâu sắc (“Con vua Đavít”) hơn đức tin của đám đông dân chúng (“Giêsu người Nadarét”). Anh cứ kêu to hướng về Đức Giêsu, bởi vì anh muốn gặp Đức Giêsu mà anh lại không biết hướng. Đã thế đám đông lại trở thành trở ngại cho đức tin của anh: họ quát nạt bắt anh im đi. Nhưng anh càng kêu to hơn. Và Đức Giêsu đã dừng lại, truyền gọi anh lại. Đám đông thấy Đức Giêsu chiếu cố đến anh, liền “đổi giọng”. Đến đây xảy ra sự cắt đứt cuộc hành trình, Đức Giêsu đứng lại (c. 49): chính thái độ này đã làm thay đổi thái độ của đám đông và đưa lại cho anh mù sự di động và sự gần gũi. Lối xử sự của Đức Giêsu (đứng lại, truyền) đã làm cho hai bên có sự gặp nhau: anh ta có hướng đi tới. Sự việc anh vất áo choàng có nghĩa là đã chấm dứt sự cố định, để đạt sự di động. Hành vi “đến” (c. 50) đưa anh mù di chuyển mà gặp Đức Giêsu, và đưa anh vào “con đường” Người đang đi. “Đức Giêsu” và “con đường” là một; nói cách khác, sự gần gũi và di động phối hợp với nhau: con đường đã mở ra cho anh mù.

* Đỉnh cao của bài tường thuật: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (51-52).

Cái nhìn cho phép gần gũi dù ở xa, và bảo đảm cho có sự an toàn trong khi di động. Từ đó, ta mới hiểu tình trạng mù loà thật sự là tình trạng của đám đông và các môn đệ, một đám đông đang đi đường với Đức Giêsu: họ ở gần mà thật ra họ ở xa, vì họ chỉ có thể thấy đây là “Giêsu Nadarét”. Nay đã được “thấy” bằng lòng tin, Báctimê phải di động, phải theo Đức Giêsu trên đường. Công thức này thường được Mc (và Mt) sử dụng trong khung cảnh một sứ vụ do Đức Giêsu giao phó cho người môn đệ (Mc 1,44; 5,19; 10,21; 14,13).

+ Kết luận

“Sự mù lòa” tượng trưng sự xa cách dù gần gũi; “sự thấy được” tượng trưng sự gần gũi dù xa cách. Toàn bài xoay quanh những khái niệm này.

Trong bài nổi lên một số nghịch lý: người mù lại là người thấy rõ hơn mầu nhiệm của Đức Giêsu, người ngồi bên vệ đường lại có thể đến gần Đức Giêsu hơn những kẻ đi theo Người lâu nay. Tất cả là do đức tin của người ấy và sự chiếu cố của Đức Giêsu.

Sự gần gũi (bằng lòng tin) phải kéo dài; muốn thế phải di động (“anh đi theo Người trên con đường Người đi”, ở thì vị hoàn). Đức Giêsu đã cắt đứt hành trình để kéo anh đi theo; anh cũng phải cắt đứt tình trạng bế tắc để đi theo Người. Đấy chính là kinh nghiệm về đời tín hữu.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Chúng ta có thể suy nghĩ về thái độ của đám đông đi theo Đức Giêsu (trong đó có các môn đệ). Họ đã “đi theo” Người lâu nay, mà họ chỉ có thể giới thiệu về Người rất sơ sài: “Giêsu người Nadarét”. Vì thiếu lòng tin, họ đã không thể giới thiệu sâu sắc hơn về Người. Điều đó đã được tác giả Mc diễn tả bằng một câu thê lương: “Đức Giêsu dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (10,32).
  2. Trong đời sống đức tin, đôi khi phải dám “đi ngược giòng”. Như anh mù, dù bị người ta quát nạt bắt im, anh vẫn cứ kêu lên Đức Giêsu, vì anh xác tín chỉ Người mới có thể mở cho đời anh một hướng mới. Chúng ta cũng được mời gọi gắn bó mật thiết với Người, vì chỉ Người mới là Đấng duy nhất dẫn chúng ta đi đúng đường.
  3. Đức Giêsu đã cho các môn đệ biết mục tiêu của chuyến đi của Người: Người không đi lên Giêrusalem để làm vua, nhưng là để hy sinh mạng sống. Bước theo Người có nghĩa là chịu hy sinh với Người. Người đã nhấn mạnh trên điểm này, nhưng các bạn đồng hành không hiểu. Họ đang bị mù, họ cứ muốn giữ mắt nhắm lại và mơ những chỗ nhất trong vương quốc. Người mù Giêrikhô tượng trưng cho các môn đệ và tất cả những ai chưa được thấy ánh sáng của Đức Kitô, chưa được đón nhận Tin Mừng.
  4. Cần phải được Đức Giêsu mở mắt tâm hồn để hiểu bản thân và sứ mạng của Người, cũng như để có thể sẵn sàng bước theo Người, làm môn đệ Người. Và khi đã nghe tiếng Đức Giêsu kêu gọi trong cuộc sống, cần mau mắn dứt khoát bỏ đi mọi sự, như bốn môn đệ đầu tiên đã tức khắc bỏ tất cả để đi theo Người. Phải chấp nhận liều lĩnh, để từ đây cuộc sống của người Kitô hữu sẽ là một sự hiệp thông thân tình với Người.

 

59. Chú giải của Noel Quesson.

Giêrikhô

Về mặt lịch sử, đó là một trong những thành phố danh tiếng nhất thế giới. Nhưng đó cũng là thành phố “thấp nhất” thế giới: Nằm trong một miền trũng sâu gọi là Ghor, dưới mặt nước biển 250 mét gần Biển Chết, nên cảnh vật hoang vắng, lúc nào cũng thấp thoáng bóng dáng thần chết. Ở đây, loại cây cọ phát triển mạnh, tạo nên một vệt xanh tươi, một ốc đảo. Đó còn là một thành phố cổ xưa nhất thế giới. Theo ý kiến các nhà khảo cổ học, đã có người cư ngụ ở đó từ năm 7.800 trước Chúa Giáng sinh, với những di tích đồn lũy có từ 7.000 năm trước Chúa Giáng sinh. Tổ phụ Abraham sống gần chúng ta hơn là thành phố đầu tiên này, một thành được coi là rất cổ ngay ở thời của tổ phụ.

Về mặt Kinh thánh, Giêrikhô là biểu tượng cho “công việc tiến vào miền đất hứa” ngay sau khi vượt qua sông Giođan. Đối với khách hành hương lên Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, cũng như đối với những đoàn người từ Galilê đi dọc theo sông Giođan thì đây là chặng đường cuối cùng, vì chỉ cách thủ đô 35 cây số.

Chúng ta đừng quên rằng, đối với Đức Giêsu cũng vậy, đó là con đường dẫn đến Giêrusalem. Ngày mai (Mc 11,1) Người tiến vào thành phố để hưởng chút vinh quang ngắn ngủi của buổi rước lá, dự buổi tiệc ly, trải qua cuộc thương khó, rồi Phục sinh.

Chữ Giêrikhô trong tiếng Do Thái có nghĩa là “thành phố mặt trăng”, chắc chắn để kỷ niệm việc thờ kính xa xưa. Vị thần của ban đêm. Chính vì thế mà Đức Giêsu sẽ làm “dấu lạ” cuối cùng: Người sẽ chiến thắng đêm tối đang giam cầm một người mù đáng thương. Đức Giêsu, ánh sáng của chúng ta! Anh sáng soi chiếu đêm tối đời ta.

Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô

Trong những ngày trước, theo trình thuật của Maccô (chương 8 đến 10) chính những môn đệ này đã tỏ ra họ hoàn toàn “mù tối” trước định mệnh thực sự của Đức Giêsu: Họ vẫn còn mơ tưởng danh dự và thành công theo kiểu loài người (Mc 10,37) trong khi Đức Giêsu đã ba lần báo trước cho họ thập giá của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,34). Những bài đọc của 6 Chúa nhật vừa qua đã cho chúng ta thấy rằng, các môn đệ là những người không hiểu biết và với cái nhìn nhân loại, hoàn toàn không đủ tư cách để bước theo Đức Giêsu: phải “mất mạng sống mình” (8,35), phải trở nên “người cuối chót” (9,35), phải tự “móc mắt, chặt tay, chặt chân” để khỏi phạm tội (9,47), phải “trung thành trong hôn phối” đến độ anh hùng (10,9), phải “uống chén đắng và nhận phép rửa”, phải trở nên “đầy tớ của mọi người” (10,38-44). Không, lạy Chúa, không thể được đối với con người, dù người đó đã làm môn đệ của Chúa, nếu chỉ dùng sức riêng của con người để “theo Chúa”.

Một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê

Trong những xứ nghèo ở phương Đông, người bị mù rất đông. Trước khi phát minh phương pháp Braille cho người mù đọc được chữ nhờ ngón tay, người mù chỉ sống bằng cách ăn xin, ngồi tại chỗ. Trong biểu tượng Kinh thánh người mù là “hình trạng” của sự “khó nghèo”, của con người bị bỏ rơi: Hãy nhìn hình ảnh đó! Đó là chân dung của bạn đấy! Con mắt tôi mù như đêm, bàn tay chìa ra, ngồi xệp dưới đất. Mù, không thể bước đi được, phải lệ thuộc kẻ khác một cách bi thảm. Nhưng nghịch lý thay, chính người “hành khất mù ngồi dưới đất” này, lại sắp trở thành gương mẫu cho tất cả chúng ta, cho các môn đệ là những người cứ “tưởng mình thấy rõ” (Ga 10,39-40).

Người hành khất mù ấy tên là Batimê. Chỉ mình Maccô đã ghi lại tên của người này. Rất có thể ông Batimê thuộc cộng đoàn những người Kitô hữu đầu tiên, lúc Maccô viết trình thuật này. Đó là một người mà người ta biết rõ: Một người đã được Đức Giêsu ban phép lạ. Bạn có biết Thiên Chúa cũng biết tên bạn, và Người thương yêu bạn với một tình thương cá biệt, không phải là nặc danh sao?

Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nagiarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng

Theo thói quen của mình, Maccô luôn tỏ ra rất cụ thể. Chúng ta sắp xem một đoạn phim ngắn vô cùng linh động, trong đó mọi chi tiết được quan sát thật tinh tế, và có giá trị biểu tượng khá cao.

Như ta biết người mù có một thính giác rất đặc biệt.

Bằng lỗ tai, ông ta đã nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, người Nagiarét.

Ngồi trên mô đất ngoài của thành Giêrikhô, ông ta nghe tiếng ồn ào của một nhóm người đi qua trước mặt mình. Người ta nói cho ông biết rằng, đó là Đức Giêsu.

“Tôi chưa bao giờ thấy Thánh nhan Người nhưng những kẻ biết Người, đã nói với tôi về Người. Từ ngày đó, tôi mong Người đi qua và tôi nghe nói. Hôm nay Người đến.

Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng ở trong tình trạng của người mù trên: ta chưa bao giờ thấy khuôn măt của Đức Giêsu. Nhờ đức tin, chúng ta đã tin vào chứng tá của những kẻ biết Người và chúng ta cũng ngóng đợi bước chân Người đi ngang qua”, Người “đang đến”. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ thấy Người.

Anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!”

Từ trong bóng đêm của người này một niềm hy vọng cuồng say đã bùng dậy. Bấy giờ anh ta la hét lên. Anh cất tiếng cầu xin. “Xin thương xót tôi”. Đó là tiếng kêu cứu của anh. Tiếng Hy Lạp là “Kyrie Eleison”. Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy Lạp, Libăng, Xyria, Ai Cập, Cappadoce vùng Sa mạc… phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mỏi mệt những từ này: Lạy Đức Giêsu, xin thương xót. Lạy Đức Giêsu, xin thương xót”. Trong trình thuật của Maccô, tiếng Hy Lạp là “Ièsou, eleison, Ièsou, eleison”

Chữ đầu đọc bằng cách hít hơi vào chữ sau bằng cách thở hơi ra, để nhịp nhàng theo cơ thể một lời cầu nguyện mà người ta muốn tinh thần của lời kinh thấm sâu vào toàn thể cuộc sống. Trong nhiều giờ liên tục, người ta có thể “thở” với Chúa trong ngực của mình. Kiểu cầu nguyện cao cả nhưng rất đơn giản này từ Phương Đông truyền cho chúng ta. Không cần phải đi Katmandou mới sống bằng thần khí được, vì thần khí muốn thổi đâu thì thổi. Kỹ thuật đáng thán phục của môn Yoga cũng có thể được những người đơn sơ nhất, sử dụng: vậy chúng ta hãy học cầu nguyện với hơi thở của mình.

“Hỡi con vua Đavít” ngày mai, ở Giêrusalem, đám đông dân chúng sẽ cầm cành lá vạn tuế trên tay để tung hô Đức Giêsu (Mc 11,10).

“Bí mật Thiên sai” không cần phải giữ nữa. Giờ đây cái chết của ông “Vua” thuộc dòng dõi Đavít đã gần kề. Mọi sự hiểu lầm về chính trị đã được gạt bỏ. Đấng Cứu Thế đã được chờ đón như là người “sẽ lập lại vương quyền tại Israel”. Vì Đức Giêsu lên Giêrusalem, mọi người đều nghĩ rằng, Chúa sẽ lên “nắm quyền”. Người là “Vua”, nhưng không phải theo kiểu những quốc gia trần thế (Mc 10,42; Mt 27,11; Ga 18,33-36) Vương miện của Người bằng gai nhọn. Con vua Đavít sinh ở Bê lem như tổ tiên, sẽ trị vì ở Giêrusalem như tiên tổ của Người. Nhưng không phải như đám đông mong đợi. Người sẽ đứng đầu bằng cách làm người sau chót, là nô lệ.

Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”

Thời nào cũng có những người bắt buộc kẻ đáng thương phải im miệng. Luôn luôn có những hạng người khó mà làm cho kẻ khác hiểu mình: đó là những di dân, những người sống ngoài lề xã hội, những kẻ khuyết tật và những nạn nhân đủ loại. Tiếng kêu của người mù Batimê vẫn còn vang lên.

Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!”

Rõ ràng, đó là một chi tiết. Nhưng chúng ta đừng vội lướt qua mà không tìm hiểu ý nghĩa của nó. Đức Giêsu sai các “môn đệ” bắt đầu phục vụ những kẻ nhỏ bé. Người nhờ các ông chuyển lời mời gọi của Người. Thiên Chúa cần con người. Vậy Chúa nói với nhân loại nhờ Giáo Hội của Người. Và Giáo Hội, chính là chúng ta, chúng ta có lắng nghe tiếng kêu luôn vọng lên chung quanh chúng ta không? Chúng ta có dội lại cho người anh em chúng ta tiếng kêu gọi của Chúa hay không? Để dẫn họ đến với Đấng cứu chuộc duy nhất? Người ta bàn cãi rất nhiều lần về “vai trò của Giáo hội”: thì chính là vai trò đó! Bạn hãy lắng nghe tiếng kêu của thế giới. Bạn hãy kêu gọi thế giới, nhân danh Chúa!

Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”

Ở đây có một từ kỹ thuật Hy Lạp đáng lưu ý. “Đứng dậy” (égeiré) mà đáng lẽ người ta phải dịch là “thức dậy” hay “sống lại” (Mc 2,9-11; 3,3; 5,41; 9,27; 10,49). Đó là sứ điệp của Giáo hội, nhân danh Chúa.

Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu

Trong ngôn ngữ Kinh thánh, chiếc “áo ngoài” là biểu tượng cho quyền lực của con người (2V 2,14, R 3,9). Đụng chạm tới áo ngoài của Đức Giêsu cũng đủ để lành bệnh. Việc người mù vứt bỏ áo ngoài của mình, tượng trưng cho một thứ ‘đoạn tuyệt với quá khứ’ của anh. Vào thời Maccô, người vừa được rửa tội, sẽ cởi áo ngoài của mình để mặc áo rửa tội.

Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”

Câu hỏi thật kỳ cục, nếu ta chỉ hiểu câu chuyện cách nông cạn. Chắc hẳn, Đức Giêsu biết rõ người mù đang mong đợi điều gì nơi Người. Nhưng cảnh này được coi như một lễ rửa tội từ đầu đến cuối: Người dự tòng cần phải được “soi sáng” để tự mình “tuyên xưng Đức tin”.

Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”

Vào thời Maccô, người ta gọi phép rửa là “việc khai sáng”. Đó là bí tích mở mắt.

Lạy Chúa, xin cho con được thấy: Lạy Chúa, xin mở mắt con ra.

Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi

Phép rửa đó là bước vượt qua từ bóng tối tiến tới ánh sáng. Đó là công cuộc cứu độ: điều không thể đối với con người, nếu chỉ dựa vào sức riêng của mình, nay đã trở nên có thể và đó là bắt đầu theo Đức Giêsu. Luca sẽ nói về các môn đệ làng Emmau: “Lúc bấy giờ mắt họ mở ra”. Vâng, họ đã mù, dù là với đôi mắt mở rộng.

Về phần anh Batimê, anh sẽ mãi mãi nhớ “khuôn mặt đầu tiên” mà anh đã thấy, khi mắt anh đã được mở ra. Lạy Chúa, khi nào mắt chúng con sẽ được mở ra. Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến!

 

60. Chú giải mục vụ của William Barclay.

PHÉP LẠ BÊN VỆ ĐƯỜNG (Mc 10,46-52)

Với Chúa Giêsu, điểm cuối cùng là chặng đường không còn bao xa nữa. Giêricô chỉ cách Giêrusalem 15 dặm, chúng ta phải cố gắng hình dung lại quang cảnh này. Con đường chính chạy xuyên qua Giêricô. Chúa Giêsu đang trên đường đi dự lễ Vượt Qua. Khi có một Rabbi được trọng vọng thực hiện một hành trình như vậy, thường thường vị ấy vừa đi, vừa thuyết giảng cho một đám đông người vây quanh, gồm dân chúng, các môn đệ và những người muốn học hỏi đi theo để nghe. Đây là một trong nhiều cách dạy dỗ thông thường nhất. Theo luật, tất cả những người Do Thái thuộc phái nam trên 12 tuổi, ở cách Giêrusalem trong vòng 15 dặm, đều phải lên Giêrusalem để dự lễ Vượt Qua. Dĩ nhiên điều luật này khó có thể tuân hành trọn vẹn và tất cả mọi người đều đổ về Giêrusalem. Số người không thể đi được thường có thói quen đứng dọc dài theo hai bên đường của các thị trấn hay làng mạc để chúc bình an cho khách hành hương đi qua đó. Vậy, bấy giờ chắc phải có nhiều người đứng dọc theo các đường phố Giêricô, có lẽ đông hơn thường lệ nữa, họ rất nôn nóng, hiếu kỳ, muốn xem mặt chàng thanh niên vùng Galilê đã có can đảm đứng lên chống lại sức mạnh tổng hợp của chính thống giáo. Giêricô có một đặc thù. Có trên 20.000 thầy tư tế và một con số đông tương đương người Lêvi trực thuộc Đền Thờ. Họ không thể cùng phục vụ một lúc trong Đền Thờ. Do đó, họ được chia làm 26 phiên ban thay nhau phục vụ. Nhiều thầy tư tế và người Lêvi trong số này thường trú tại Giêricô khi chưa đến phiên phục vụ trong Đền Thờ. Hôm ấy, trong đám đông tại Giêricô hẳn cũng có nhiều người trong số họ. Vào dịp lễ Vượt Qua tất cả những người này đều có mặt phục vụ tại Đền Thờ. Đây là một cơ hội hiếm hoi mà mọi người đều có công tác. Nhưng nhiều người vẫn chưa vội khởi hành. Họ còn nóng lòng gấp đôi dân chúng, mong được trông thấy tận mắt kẻ phản loạn sắp xâm chiếm Giêrusalem. Cho nên hôm ấy, có lẽ trong đám đông đang có nhiề con mắt lãnh đạm, thù địch chăm chú nhìn vào Chúa Giêsu, vì rõ ràng nếu Chúa Giêsu đúng, toàn thể việc thờ phượng trong Đền Thờ trở thành lỗi thời.

Ở cửa phía Bắc thành phố có một người ăn mày mù tên là Batimê. Anh ta nghe nhiều tiếng chân người đi, nên dò hỏi xem có chuyện gì xảy ra, và ai sắp đi ngang qua. Người ta bảo đó là Chúa Giêsu. Lập tức anh ta đứng dậy kêu to lên để khiến Chúa Giêsu phải chú ý đến mình. Với số đông người đang đi theo Chúa Giêsu để lắng nghe những giáo huấn của Ngài, thì tiếng hét to đó là một xúc phạm. Họ cố làm cho Batimê phải im tiếng, nhưng đã không ai lấy được của anh ta cái cơ may duy nhất có thể thoát khỏi thế giới tối tăm, nên anh ta cứ hét thật to đến nỗi đoàn người đông đảo đó phải dừng lại và người ta dẫn anh ta đến với Chúa Giêsu. Đây là câu chuyện có rất nhiều điểm soi sáng, qua đó, chúng ta sẽ thấy được nhiều điều có thể gọi là những điều kiện để một phép lạ có thể xảy ra.

1/ Có sự kiên trì triệt để của Batimê.

Không có gì ngăn cản được tiếng kêu gào của anh ta mong được đối diện với Chúa Giêsu. Anh quyết tâm phải gặp cho bằng được con người mà từ lâu anh trông mong được gặp mặt với tình trạng tật nguyền của mình. Trong trí Batimê ước muốn nhìn thấy Chúa Giêsu không phải là một sự mơ hồ, hoặc do cảm xúc. Đây là một ước muốn thiết tha và chính ước vọng tha thiết đó đã khiến cho mọi sự được thành.

2/ Anh ta đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu ngay tức khắc, hết sức sốt sắng, sốt sắng đến nỗi anh ta đã vứt đi chiếc áo ngoài để chạy đến với Chúa Giêsu cho nhanh hơn.

Nhiều người khi được nghe tiếng gọi đã thực sự tự nhủ “Hãy chờ một chút để tôi làm việc này cho xong đã”. Nhưng khi Batimê nghe tiếng gọi, anh lập tức chạy đến với Chúa ngay. Có nhiều cơ may chỉ xảy đến một lần mà thôi. Do bản năng, Batimê biết rõ điều đó. Lắm khi chúng ta cũng muốn vứt bỏ một thói quen, muốn thanh tẩy đời sống khỏi một vài điều sai quấy, muốn hiến thân cho Chúa Giêsu trọn vẹn hơn, nhưng thường thường chúng ta cũng không chịu hành động ngay, rồi dịp may qua đi và chẳng bao giờ trở lại.

3/ Anh biết đúng nhu cầu của mình đang cần được sáng mắt.

Lắm khi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu chỉ là sự thu hút mơ hồ. Khi đi bác sĩ, chúng ta muốn bác sĩ giúp điều trị một tình trạng nhất định nào đó. Khi đến nha sĩ chúng ta muốn ông ta nhổ cái răng đang đau chứ không chữa bất kỳ cái răng nào. Giữa chúng ta với Chúa Giêsu cũng vậy. Điều này liên hệ đến một điều mà rất ít người muốn đối diện: tự xét mình. Khi đến với Chúa Giêsu, nếu chúng ta tha thiết mong ước được một điều rõ ràng, dứt khoát như Batimê, sẽ có chuyện lại xảy ra.

4/ Batimê có một quan niệm hết sức thiếu sót về Chúa Giêsu.

Anh ta cứ nằng nặc gọi Ngài là con vua Đavít. Thật vậy, đó là danh hiệu của Đấng Mêsia, nhưng cả tư tưởng đó nói lên một Đấng Mêsia chinh phục thế gian, một vua thuộc dòng dõi Đavít sẽ đưa dân Israel đến chỗ vĩ đại của dân tộc. Đó quả là một ý niệm hết sức khiếm khuyết về Chúa Giêsu. Dầu vậy, Batimê vốn có đức tin ấy đã hàn gắn cho khuyết điểm về thần học của anh. Điều đòi hỏi không phải là chúng ta phải hiểu biết đầy đủ về Chúa Giêsu. Dầu thế nào chúng ta sẽ chẳng bao giờ hội đủ điều kiện đó. Điều đòi hỏi chúng ta là đức tin. Một tác giả khôn ngoan đã viết “Chúng ta phải đòi hỏi người ta suy nghĩ, nhưng không nên trông đợi họ trở thành những nhà thần học trước khi trở thành Kitô hữu”. Kitô giáo bắt đầu qua một phản ứng đối với Chúa Giêsu, phản ứng do tình yêu cảm biết đây là người thỏa mãn nhu cầu của mình. Ngay cả khi chúng ta không thể suy nghĩ nổi mọi sự theo thần học thì chính sự đáp ứng từ tấm lòng được xem là đủ.

5/ Cuối cùng có một mối quan hệ quý báu.

Batimê chỉ là một người ăn mày mù ngồi bên vệ đường, nhưng anh là người biết tri ân. Sau khi được chữa lành, anh ta đã đi theo Chúa Giêsu. Anh không ích kỷ đi theo đường riêng sau khi nhu cầu của mình được đáp ứng. Anh ta bắt đầu với nhu cầu, tiếp tục bằng lòng biết ơn và kết thúc bằng sự trung thành, và đây là phần tóm tắt rất đầy đủ về các giai đoạn trong việc làm môn đệ của Chúa.

 

61. Con mắt Đức tin – Trầm Thiên Thu

Con mắt là cửa sổ tâm hồn. Nhìn vào mắt người đối diện, người ta có thể “thấy” được những thứ trong tâm hồn người đó. Ánh mắt cũng có một “dòng điện” đặc trưng, người nào “yếu” sẽ chuyển ánh mắt nhìn sang hướng khác, nghĩa là “yếu vía” hơn người kia. Vì thế mà cũng là ánh mắt nhưng có nhiều cách nhìn khác nhau: Nhìn thẳng, nhìn xiên, nhìn ngang, nhìn dọc, nhìn lấm lét, nhìn trộm, nhìn kín đáo, nhìn lộ liễu, nhìn thán phục, nhìn khinh bỉ, nhìn chân thật, nhìn đểu cáng,…

Cũng với một vấn đề, một sự vật hoặc một con người, nhưng mỗi người đều có cách nhìn khác nhau. Cố NS Trịnh Công Sơn có cách nhìn thế này: “Còn hai con mắt, khóc người một con. Còn hai con mắt, một con khóc người” (Con Mắt Còn Lại), và ông còn diễn tả con mắt bằng nhiều kiểu: “Những con mắt tình nhân, Nuôi ta biết nồng nàn, Những con mắt thù hận, Cho ta đời lạnh căm. Những mắt biếc cỏ non, Xanh cây trái địa đàng, Những con mắt bạc tình, Cháy tan ngày thần tiên. Những con mắt trần gian, Xin nguôi vết nhục nhằn, Những con mắt muộn phiền, Xin cấy lại niềm tin, Những con mắt quầng thâm, Xin tươi sáng một lần…” (Những Con Mắt Trần Gian).

Với người Đông phương cổ đại còn có “con mắt thứ ba”, gọi là “thiên nhãn” (*). Với người có niềm tin tôn giáo nói chung, và với người Công giáo nói riêng, còn có “con mắt đức tin” – một loại “thiên nhãn”. Quả thật, chỉ với con mắt mà cũng có thiên hình vạn trạng!

Con mắt nhìn khiến lòng tham trỗi dậy. Lòng tham có thể ẩn núp tinh vi: Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh. Chưa có “cơ hội” chưa biết ai thật thà hay tham lam. Có những tài xế taxi phát hiện khách bỏ quên trên xe vài chục triệu mà vẫn trả lại khổ chủ, đó mới là người trong sạch – sạch từ ánh mắt. Sách Huấn Ca xác định: “Bạc tiền khiến cho bao người sa ngã, thế nào cũng đưa họ đến hư vong. Nó là cái bẫy cho ai say mê nó, hết mọi kẻ ngu si sẽ sa vào” (Hc 31:6-7). Ai cũng cần tiền, nhưng tiền không là tất cả, cần mức nào và có “nặng lòng” với nó hay không lại là chuyện khác. Tiền chỉ là phương tiện, không là mục đích. Tiền là đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu (Tục ngữ Pháp – L’argent est un servant bon mais un maitre mal).

Sách Huấn Ca nói: “Phúc thay ai giàu có mà vô tội, không chạy theo của cải, tiền tài” (Hc 31:6). Đó mới là vấn đề. Đừng tưởng nghèo thì được chúc phúc. Nghèo mà không sạch thì cũng vô ích: Lòng bẩn! Nghèo mà vẫn tham thì không thể vô tội, và tất nhiên không thể biện hộ. Quả thật, không dễ chút nào! Đừng nói hay, có dịp tham mà không tham đó mới là trong sạch. Người đó (giàu hay nghèo) được khen là có phúc, vì trong dân, người đó khiến cho bao người phải tâm phục khẩu phục qua cách sống.

Người có tâm hồn trong sạch như vậy hẳn là người sống trong ơn nghĩa của Thiên Chúa, dù trong nghèo khổ hoặc cơ cực thì họ vẫn một lòng tín trung với Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh, họ vẫn vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” [Tv 125 (126):2]. Quả thật, việc Chúa làm thật vĩ đại và vô song. Chính người đó thấy mình chan chứa một niềm vui, vui vì sống thanh thản trong Ơn Thánh Chúa.

Đời là bể khổ. Không ai lại không khổ. Khổ nhiều cách. Khổ nhiều mức. Sinh ra là bắt đầu khổ. Đôi khi có người còn khổ chồng chất, khổ tới chết vẫn không được một ngày sung sướng. Nhưng vấn đề là ở lòng kiên trung trong niềm tin vào Thiên Chúa ngay trong những nỗi cơ cực nhất, chắc chắn Chúa sẽ thương: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” [Tv 125 (126):5]. Muốn tín trung thì phải dùng đến con mắt đức tin. Vững đức tin trong khốn khổ cùng cực có lẽ chưa ai bằng Thánh Gióp.

Thầy dạy đức tin là Đại sư phụ Giêsu. Chúng ta có đức tin là nhờ Ngài. Vì thế, chúng ta sống đức tin là minh chứng cho Thiên Chúa, không được giữ đức tin đó cho riêng mình mà phải truyền đức tin sang cho người khác. Đó là một nhiệm vụ chung, nhất là trong Năm Đức Tin này với chủ đề Tân Phúc Âm hóa. Truyền đức tin sang người khác cũng là một cách truyền giáo mới trong thế giới ngày nay, vì người ta càng ngày càng không muốn sống đức tin nữa!

Những người được tuyển trạch để lãnh nhận chức tư tế thừa tác càng có trách nhiệm nặng nề hơn trong việc loan truyền đức tin. Thánh Phaolô nói: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Dt 5:1). Đúng vậy, trước khi làm tư tế thì vẫn phải làm con người, với mọi thứ của một con người bình thường. Người đó phải “có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5:2-3). Và vì thế, “không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi” (Dt 5:4). Thế nhưng trong thực tế lại khác, đúng như người Việt thường nói: “Cờ đến tay ai người đó phất”. Câu nói giản dị và nhẹ nhàng nhưng vô cùng thâm thúy! Thế nên, có khi người ta sống ngược với lời Đức Kitô: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28).

Thánh Phaolô chỉ ra rõ ràng: “Không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5:5-6). Đức Kitô còn chưa tự xưng mình là “ông kia, ông nọ” thì huống gì chúng ta, nhưng phàm nhân đầy tội lỗi, bất trác và bất túc.

Một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Ngài cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê. Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:47). Thấy vậy, nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:48).

Chúng ta thấy có hai thái cực rạch ròi: Những người quát nạt Batimê là những người ngăn cản người khác đến với Chúa Giêsu, còn anh mù Batimê đại diện cho những người có niềm tin kiên vững. Có nhiều khi chúng ta cũng đã từng ngăn cản người khác đến với Chúa bằng nhiều cách, dù không nói trực tiếp. Chẳng hạn chúng ta mỉa mai hoặc chê bai khiến người ta ngại đến với Chúa. Chúng ta phải học tập anh Batimê trong việc tín thác vào Chúa, như ca dao Việt Nam nói: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, Lòng tôi vẫn vững như kiềng ba chân”. Và “chiếc kiềng” đó là: Thỉnh cầu, Tín thác, Thực hành. Có thể gọi tắt là 3T cho dễ nhớ.

Nghe Batimê gào to, Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (Mc 10:49a). Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy!” (Mc 10:49b). Nghe nói vậy, anh quá phấn khởi nên liền vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10:51a). Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc 10:51b). Ngài nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10:52).

Sự việc diễn ra nhanh chóng, ngắn gọn. Điều đáng lưu ý là Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh đến LÒNG TIN, nghĩa là “đức tin quan trọng hơn phép lạ”, nhưng người ta lại thường “khoái” phép lạ hơn tầm nhìn của đức tin. Nếu vậy, đó là chứng “mù đức tin”. Chứng mù tâm linh nguy hiểm hơn chứng mù thể lý. Do không hiểu rõ, không biết nhiều hay không chịu hiểu? Đó là điều cần tự xét mình về cách tin và mức độ tin vào Chúa Giêsu: “Quý vị tin thế nào thì được như vậy” (Mt 9:29).

Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin ban cho chúng con đức tin vững vàng trong mọi hoàn cảnh, xin mở con mắt đức tin để chúng con nhận biết Thánh Ý Ngài và biết chân thành chia sẻ nỗi đau của tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

__________________________________

(*) Hình ảnh con mắt thứ ba được thể hiện trên trán của các vị thần trong các tác phẩm điêu khắc cổ đại ở các đền chùa Phật giáo. Người ta tin rằng, con mắt nhìn thấu mọi điều đã được Thượng đế ban tặng cho các vị thần để họ có những năng lực siêu phàm nhìn thấu những vật vô hình. Theo đạo Cao đài, người tu hành khi đạt được “đạo pháp” sẽ có thêm con mắt thứ ba – gọi là “huệ nhãn”, có thể nhìn thấu cõi vô hình. Trong Yoga, việc luyện tập Marantha để có được một vài năng lực tâm linh thần bí như khai sáng được “con mắt thứ ba” mà người khác không có.

Người Ấn Độ thường chấm một điểm trên trán giữa hai con mắt để diễn tả con mắt thứ ba, đó là “thần nhãn”, có thể thấy những gì mà người trần mắt thịt vẫn nhìn mà không thể thấy được. Nhiều giả thuyết khác cho rằng, ngày xưa Adam và Eva đã phạm “thiên luật” nên tuyến yên (pituitary) và tuyến hạch (pineal, hình trái thông) nằm ở khoảng giữa hai con mắt đã dần bị hạn chế khả năng nhìn nhận ánh sáng.

Theo một số nghiên cứu khoa học, thông thường mỗi sinh vật đều có một “con mắt thứ ba” nằm ở trung tâm não, gọi là “tuyến tùng”. Nó cảm nhận giống như một con mắt vì tuyến tùng phản ứng lại với những thay đổi của ánh sáng. Mới đây người ta khám phá thấy mắt thường cũng có thể sản xuất được chất melatonin, làm cho tuyến tùng càng ít quan trọng hơn.

 

62. Xin cho được nhìn thấy

(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)

Thánh kinh là một câu chuyện trở về nhà Chúa, Đấng hằng nóng lòng và kiên nhẫn đợi chờ loài người. Thường người ta không đánh giá được, cũng không quí trọng được sự vật mà người ta có, cho tới khi người ta mất đi. Người ta không đánh giá được quê hương, nhà cửa, ruộng vườn cho tới khi người ta phải rời bỏ như trong hoàn cảnh di cư, tị nạn. Bài trích sách ngôn sứ Giêrêmia hôm nay kể lại vị ngôn sứ hướng về ngày mà dân Ítraen sẽ từ cuộc lưu đầy trở về quê hương. Trong ngày giải thoát đó, Giêrêmia loan báo là người mù, người què và người than khóc sẽ tìm thấy niềm an ủi trong tình thương của Thiên Chúa. Bài trích thư gửi tín hữu Do thái là câu chuyện những người tội lỗi được máu con Thiên Chúa đổ ra để được phục hồi trong ơn bình an. Còn bài Phúc âm ghi lại việc Chúa chữa người mù Batimê.

Người mù thành Giêricô biết đã mất nhãn quan. Vì thế anh ta kêu van xin Chúa Giêsu thương xót. Càng bảo anh ta im đi thì anh ta lại càng kêu lớn tiếng: Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi (Mc 10:17). Người mù này xin đặc ân được khỏi bệnh mù trong khi bày tỏ đức tin. Tiếng kêu cấp cứu của anh ta đã khiến Chúa động lòng thương xót và hành động. Và rồi không những anh ta được điều anh ta xin là được phục hồi khỏi bệnh mù, anh ta còn được ân huệ thiêng liêng là trở nên môn đệ Chúa: Tức khắc anh ta thấy được và đi theo Người (Mc 10:52). Đọc Phúc âm ta thấy bất cứ khi nào Chúa Giêsu làm phép lạ, Người đều nhắc đến lòng tin. Tất cả những ai được ơn phép lạ đều có một điểm giống nhau là lòng tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa. Đức tin của người mù Batimê đã cứu chữa anh ta.

Người ta không cần phải mất mát hoàn toàn sự vật gì thiết yếu, mới cảm thấy luyến tiếc. Có ông linh mục kia bị đứt một mạch máu nối vào một phần tư của mắt trái, làm mờ mắt phải. Lúc đầu linh mục đó không trông thấy người qua lại bên phải. Đọc sách rất khó khăn vì mặt chữ bị chói loà khi ẩn khi hiện. Đọc một trang sách phải mất cả nửa giờ đồng hồ. Không lái xe và không dâng thánh lễ được trong cả tháng. Rất xuống tinh thần. Rồi theo định luật bù trừ của Đấng tạo dựng, những phần khác của thần kinh thị giác phải bù đắp lại cho phần đã mất. Với thời gian, linh mục đương sự đã có thể nhìn thấy rõ hơn, lái xe và dâng lễ được trong tâm tình cảm tạ đội ơn.

Từ ngữ mù loà được dùng tới ba mươi ba lần trong các Phúc âm, trong đó có mười hai lần bàn đến mù loà của tâm hồn hay mù loà thiêng liêng. Nếu bị mù loà về phương diện thiêng liêng mà không biết, người ta còn đáng thương hại hơn người mù trong Phúc âm. Người mù trong Phúc âm biết mình mù. Còn ta lại không biết mình đã bị mù quáng về phương diện thiêng liêng. Do đó ta không nhìn thấy ánh sáng chân lý, không nhìn thấy những khuyết điểm và tội lỗi cuả mình và không biết mình đang đi lầm đường lạc lối. Ta tự nhắm mắt lại trước những lời kêu gọi ăn năn sám hối. Ta làm ngơ trước những đau khổ của tha nhân trong nhiều trường hợp trong đời sống. Ta bỏ qua những dấu chỉ của thời đại, những biến cố xẩy ra trong vũ trụ, trong đời sống cá nhân như đau ốm, bệnh tật, tai nạn. Những biến cố đó có thể là những dấu chỉ mà Chúa muốn nói với ta điều gì đó. Phải chăng Chúa muốn ta thu dọn nhà tâm hồn hay Chúa muốn ta sửa sang lại đời sống nội tâm?

Vậy đâu là những căn do của bệnh mù loà thiêng liêng? Ghen tuông, kiêu căng, tự phụ, tham lam, nóng giận, hay những đam mê khác nhau, có thể khiến người ta bị mù quáng về phương diện thiêng liêng, hoặc bị mù quáng toàn diện hay bị mù phần nào đó. Nếu hướng chiều về đàng trái về một vài phương diện nào, khiến ngưởi ta bị mù về một vài phương diện đó mặc dù về phương diện khác, họ không bị mù.

Hôm nay ta cầu xin Chúa cho những người mù, xin Chúa làm giầu trí tưởng tượng và những giác quan khác của họ để họ có thể cảm nghiệm được những vẻ đẹp của công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Ta cũng xin Chúa tiếp tục soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia để họ có thể sáng chế ra những máy móc giúp cho người mù tự sinh tồn trong đời sống hằng ngày như hệ thống in và viết chữ Braille nổi cho họ đọc, như gậy điện tử giúp họ đi lại, máy quang tuyến giúp họ thấy được phần nào ánh sáng. Ta cũng cầu xin Chúa mở mắt thiêng liêng để ta có thể nhìn thấy ánh sáng chân lí. Nếu ta bị mù về phương diện nào đó trong đời sống, ta cầu xin Chúa chữa trị để ta có thể nhìn thấy những điều sai quấy của chính mình.

Lời cầu nguyện cho người mù loà:

Lạy Chúa Kitô là ánh sáng thế gian.

Xin tha thứ những lần

con coi nhãn quan thấy được là ngẫu nhiên.

Xin soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia

tìm ra phương thế giúp người mù được thấy.

Nếu bị bệnh mù loà thiêng liêng,

xin cho con được biết mình:

tạ ơn về những ưu điểm Chúa ban

và sửa đổi những khuyết điểm của con. Amen.

Sưu tầm

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *