Lời Chúa: Cn 31, 10-13.19-20.30-31; 1Tx 5, 1-6; Mt 25, 14-30
Bài đọc 1: Cn 31,10-13.19-20.30-31
Nàng hưởng những thành quả tay nàng làm ra.
Bài trích sách Châm ngôn.
Tìm đâu ra một người vợ đảm đang ?
Nàng quý giá vượt xa châu ngọc.
Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng,
chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc.
Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc
chứ không gây tai hoạ cho chồng.
Nàng tìm kiếm len và vải gai,
rồi vui vẻ ra tay làm việc.
Nàng tra tay vào guồng kéo sợi,
và cầm chắc suốt chỉ trong tay.
Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ
và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.
Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân.
Người phụ nữ kính sợ Đức Chúa
mới đáng cho người đời ca tụng.
Hãy để cho nàng hưởng những thành quả tay nàng làm ra.
Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng
do những việc nàng làm.
Bài đọc 2: 1 Tx 5,1-6
Đừng để ngày của Chúa như kẻ trộm bắt chợt anh em.
Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ : ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói : “Bình an biết bao, yên ổn biết bao !”, thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được.
Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ.
Tin Mừng: Mt 25,14-30
Được giao ít mà anh đã trung thành, hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này : “Người kia sắp đi xa, gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông đưa cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy đến và yêu cầu họ thanh toán sổ sách. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói : ‘Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây.’ Ông chủ nói với người ấy : ‘Khá lắm ! Anh đúng là tôi tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !’ Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói : ‘Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây.’ Ông chủ nói với người ấy : ‘Khá lắm ! Anh đúng là tôi tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !’ Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói : ‘Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông vẫn còn nguyên đây này !’ Ông chủ đáp : ‘Anh thật là tôi tớ xấu xa và biếng nhác ! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gửi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa ; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài : ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng’.”
Mục lục
1. Siêng năng và biếng nhác (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Cơ hội thành tài (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Nén bạc tình yêu (Jorathe Nắng Tím)
4. Tình yêu đáp trả tình yêu (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)
5. Khả năng Chúa ban (Anna Cỏ May, Học viện MTG.Thủ Đức)
6. Tùy khả năng riêng (Thiên San, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Phần riêng biệt (Trầm Thiên Thu)
8. Chân thành (Lm. Vũ Đình Tường)
9. Đầu tư vào của cải, tài năng, ân huệ Chúa ban (Lm. Trần BìnhTrọng)
10. Tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến (Lm. Đan Vinh)
11. Chỉ một bước chân (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
12. Lòng mến Chúa yêu người nơi Các Thánh TĐVN (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
13. Hiến dâng để sống tinh thần Tử Đạo (Lm. Nguyễn Minh Hùng)
14. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Lễ Các Thánh Tử Đạo VN (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
15. Màu sắc tin yêu (Trầm Thiên Thu)
SIÊNG NĂNG VÀ BIẾNG NHÁC
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Giữa những toan tính bon chen của cuộc sống hằng ngày, vào lúc cuối năm, Phụng vụ nhắc chúng ta đừng quên tính sổ với Chúa, để “kết toán” những gì chúng ta đã sống, đã hành động, đồng thời đừng quên ơn mà chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa. Những ơn đó cũng chính là số vốn mà Chúa trao cho chúng ta quản lý và sinh lợi. Có những người sử dụng ơn Chúa ban một cách siêng năng và sinh lợi gấp nhiều lần, nhờ vậy mà được ban thưởng; nhưng cũng có những người biếng nhác, chẳng chịu làm gì, để rồi bị chúc dữ và chịu án phạt. Vào lúc năm cùng tháng tận, chúng ta cần suy xét cuộc đời, nhờ đó, xác định hướng đi, với hy vọng đạt tới hạnh phúc vào lúc cuối cuộc đời.
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt vào ngữ cảnh một chuỗi những bài giảng về cánh chung, tức là ngày tận thế. Chúa Giêsu đã giáo huấn bằng 5 dụ ngôn liên tiếp, đó là dụ ngôn về đại hồng thủy (Mt 24,37-42); về kẻ trộm ban đêm (Mt 24,43-44); về người đầy tớ trung tín (Mt 24,45-51); về mười cô trinh nữ (Mt 25,1-13). Như vậy, dụ ngôn những nén bạc (Mt 25,14-30) là dụ ngôn cuối cùng của chuỗi dụ ngôn này, trước khi Chúa nói về cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46).
Thật hiếm thấy tác giả Tin Mừng dùng ngôn ngữ của thương mại để diễn tả giáo huấn của Chúa Giêsu. Nên lưu ý, trong tiếng Anh và tiếng Pháp, chữ “Talent” vừa có nghĩa là “yến bạc” hoặc đơn vị tiền tệ, vừa có nghĩa là “tài năng”. Một tác giả đã nghiên cứu lịch sử và lượng giá một “Talent” hay một yến bạc thời Chúa Giêsu tương đương với thu nhập của 15 năm đối với một người lao động bình thường. Dụ ngôn muốn nói với chúng ta, những gì chúng ta có được, kể cả tài năng và của cải, đều là Chúa trao cho chúng ta quản lý và sinh lợi. Sẽ đến lúc chúng ta phải tường trình về cách sử dụng những tài năng và của cải đó.
Ông chủ trong dụ ngôn vừa khôn ngoan và vừa quảng đại. Ông khôn ngoan vì biết khả năng của mỗi đầy tớ. Ông quảng đại vì không hề ra điều kiện buộc phải sinh lợi bao nhiêu với số vốn đã trao. Ông chủ chính là hình ảnh Thiên Chúa. Ngài ban cho chúng ta những yến bạc, những tài năng để chúng ta sinh lợi. Người ban nhiều hay ít là tùy theo khả năng của mỗi người. Chúa trao cho chúng ta sức khỏe, trí thông minh, hoàn cảnh gia đình, bạn bè và những điều kiện thuận lợi. Đó là vốn liếng chúng ta được nhận từ Chúa và chúng ta có bổn phận phải sinh lợi. Sau khi trao phó của cải cho các đầy tớ, ông chủ đi xa lâu ngày. Thiên Chúa cũng dường như vắng bóng trong cuộc đời của chúng ta. Chúng ta không nhìn thấy Ngài. Nhưng chắc chắn có ngày Ngài đến để thanh toán sổ nợ với chúng ta. Người Kitô hữu tin rằng đó là lúc sau hết của cuộc đời con người. Khi ấy, Thiên Chúa sẽ đến gặp gỡ chúng ta và chúng ta phải trả lời trước mặt Chúa về số vốn được trao.
Người đầy tớ thứ nhất và thứ hai được ông chủ khen là “tài giỏi và trung thành”, vì họ đã làm lợi gấp đôi số vốn được trao. Khi tuyên bố: “Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh”, ông chủ đã đưa anh từ địa vị đầy tớ lên ngang hàng với ông chủ, không còn phân biệt “chúa-tôi” nữa. Nói cách khác, nhờ sự trung thành và cần mẫn, hai người đầy tớ đã thoát khỏi thân phận nô lệ mà trở nên như con cái của ông chủ, được cho hưởng niềm vui và vinh quang. Đây cũng là mạc khải Kitô giáo về ý nghĩa và phẩm giá con người. Những ai tin vào Chúa Giêsu và thực hành giáo huấn của Người sẽ trở nên những nghĩa tử của Thiên Chúa. Sau khi kết thúc cuộc sống đời này, họ được đón nhận vào nhà Chúa để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Họ không còn phải than khóc, buồn sầu, nhưng được hưởng niềm vui trọn vẹn mà Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến và phụng sự Ngài.
Thân phận của người đầy tớ thứ ba thì lại không được như thế. Anh bị ông chủ mắng là “vô dụng, xấu xa và biếng nhác”. Anh không thật tâm với ông chủ. Bằng chứng là mặc dù anh chịu ơn ông chủ, nhưng trong đầu óc của anh luôn nghĩ xấu về chủ mình. Những nhận định của anh về ông chủ vừa thiếu thiện chí vừa mang tính vu khống: “Tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi…”. Tại sao lại nói ông chủ là người “gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi” trong khi chính ông chủ đã trao tận tay anh ta một yến bạc để làm vốn? Hơn nữa, trong khi hai người đầy tớ trước rất tự tin nói với ông chủ: “Ông đã trao cho tôi năm (hai) yến, tôi đã gây lời được năm (hai) yến khác đây”, thì anh đầy tớ lười nhác này lại nói với ông chủ: “Của ông vẫn còn nguyên đây này!”. Cách nói “Nén bạc của ông” và “Của ông vẫn còn nguyên” ở câu 25 cho thấy người đầy tớ xấu xa và lười nhác chưa bao giờ coi số vốn đó là như của mình, để rồi anh quan tâm làm cho sinh lợi. Anh là người vô trách nhiệm và thiếu thiện chí. Một điều nhỏ nhất anh có thể làm được mà anh cũng bỏ không làm, đó là đem gửi số bạc đó vào ngân hàng để hưởng lợi. Anh đáng khiển trách không phải vì đã làm điều xấu, nhưng vì anh biếng nhác không chịu làm gì. Hơn thế nữa, anh còn có lối suy nghĩ không tốt về chủ mình, người chủ đã tin tưởng trao vốn cho anh một yến bạc, dù biết khả năng anh khiêm tốn. Hình phạt cho anh đã rõ ràng và thích đáng: anh bị tước mất một yến bạc được trao phó và bị tống ngục. Ngục giam ở đây được trình bày như một nơi tăm tối và khóc lóc, là nơi thiếu vắng tình yêu. Đó chính là cách diễn hỏa ngục theo niềm tin của Do Thái giáo.
Siêng năng là một đức tính cần thiết trong đời sống Đức Tin cũng như trong đời sống xã hội. Tác giả sách Châm ngôn diễn tả sự siêng năng qua chân dung một người phụ nữ đức hạnh. Nàng biết miệt mài làm việc trong gia đình. Nơi nàng, người chồng đặt niềm tin tưởng hoàn toàn. Nàng luôn biết quan tâm đến những người xung quanh, mang cho họ niềm vui và nụ cười (Bài đọc I). Đó là vẻ đẹp nội tâm, vượt xa những vẻ đẹp hào nhoáng bên ngoài.
Siêng năng cũng mang một khuôn mặt khác là tỉnh thức. Vâng, chúng ta cần tỉnh thức, vì cuộc sống này chính là một cuộc chờ đợi không ngừng. Chúa sẽ đến vào giờ chúng ta không ngờ, ngay cả lúc người ta nghĩ là yên ổn và an bình. Hãy tỉnh thức và sống tiết độ, đó là lời khuyên của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Thessalonica (Bài đọc II). Đó cũng là thông điệp mà Giáo Hội gửi đến chúng ta trong những ngày cuối năm này.
Bốn điều mà thế hệ trẻ nên suy gẫm:
– Thất bại là gì? Bỏ cuộc là thất bại lớn nhất.
– Kiên cường là gì? Một khi bạn đã kinh quan gian khó, uất hận và thất vọng, chỉ khi đó bạn mới hiểu được kiên cường là gì.
– Nghĩa vụ của bạn là: Siêng năng hơn, chăm chỉ hơn, và tham vọng hơn người khác.
– Chỉ kẻ ngu muội mới dùng miệng để nói. Người thông minh dùng trí óc, và người sáng suốt dùng trái tim (Samuel Johnson).
Lm. Jos DĐH.
Tương lai của mỗi người vô cùng phong phú: kẻ yếu hèn sẽ nói hạnh phúc là điều không thể ! Người sợ hãi sẽ nói, tình yêu thật là điều tôi chưa nghe, chưa hiểu ! Với người dũng cảm, mỗi ngày, mỗi giây phút trong đời, đều là cơ hội. Bạn có tin vào tương lai không, hãy hành động, đó là cơ hội, vì ngay cả khi tiền tài của bạn tựa non cao, giầu sang cùng phú quý, cũng chẳng mua được “tình” ? Cuộc sống hiện tại, đúng là cơ hội dành cho ta: thành đạt, có danh có phận, có quả phúc. Đã gọi là cơ hội, không thể chậm trễ, ví như: trâu chậm uống nước đục ; trăng đẹp sao sáng về đêm khuya, nhưng không phải đêm nào cũng có “sao băng”. Được sinh ra làm người, lẽ nào bạn không có ước mơ, ít là ước muốn làm người tốt, người hữu ích ?
“Các con hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ”. Đó là sự thật, là một tương lai đáng sợ cho những ai sống hời hợt, khi theo Đức Giêsu làm môn đệ ! Vì tinh thần thì lanh lẹ, xác thịt lại yếu đuối: bạn chấp nhận là hèn yếu, hay mang trái tim “thỏ đế”, là hiền nhân quân tử, hoặc vì yêu, vì tín thác Đấng là Thầy là Chúa ở trong bạn ? Câu trả lời của mỗi người phải là: có hay không mùa đông mới biết, giầu nghèo, 30 tết mới hay ! Các Thánh tử đạo Việt Nam có cơ hội để chọn lựa, có tự do minh chứng về một tình yêu thật, các ngài không để vụt tắt điều kỳ diệu được nên giống Thầy: thử thách càng to, hạnh phúc càng lớn.
Con người tự nhiên lý luận rằng: luyện mãi thành tài, miệt mài tất giỏi, câu thành ngữ có sức thuyết phục tới đâu, tuỳ thời gian, mức độ và hoàn cảnh mỗi người sẽ tự trả lời. Về phương diện siêu nhiên, con người yếu đuối mỏng giòn, ai đủ bình chân như vại khi nghe Đức Giêsu nói: “các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền, và vua chúa, vì Thầy, để làm chứng cho họ, cho dân ngoại được biết”. Cha ông chúng ta có cơ hội để thăng quan tiến chức, được ăn sung mặc sướng, không phải đau đớn thể xác, không phải chết, nhưng tại sao các ngài từ chối ? Các ngài còn cảm thấy vui, khi nói: đối với tôi, bị bắt vì đạo Chúa là một hồng ân. (Phêrô Tự). Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên Thánh giá, vì tôi biết đạo Chúa là đạo thật. (Têphanô Vinh).
Hãy học cách lắng nghe, cơ hội có thể gõ cửa rất khẽ khàng. (Frank Tyger). Các thánh tử đạo chắc chắn không phải vì dốt, vì dại khờ, không biết né tránh khổ đau sự chết, lịch sử ghi nhận các ngài vì yêu, vì ước muốn được nên Một Tình Yêu Ba Ngôi. Xã hội văn minh, không ai lấy dạ tiểu nhiên để đo lòng người quân tử, nhất là đụng đến các vị anh hùng dân tộc. Ra khỏi gia đình, bạn sẽ nghe rất nhiều âm vang khác lạ: đừng bao giờ hỏi cha mẹ đã nuôi dạy, đã đầu tư cho bạn thế nào, nhưng hãy tự suy xét, bạn có thương yêu cha mẹ, đã sống chữ hiếu chữ thảo đến đâu rồi ? Tiếng nói của các chuyên gia vẫn vô cùng thiết thực: hoàn cảnh sống của bạn có thể nghèo, hèn, có thể bẩn, hôi, nhưng bạn không được hèn nhát, vì tổ tiên dòng tộc của các bạn là anh hùng quân tử.
Là con cháu của các thánh tử đạo, là môn đệ của Đức Giêsu, dù điều kiện, hoàn cảnh, của ta không thuận lợi, nhưng cơ hội vẫn rộng mở: giầu 30 tuổi chớ mừng, khó 30 tuổi xin đừng vội lo. Cơ hội để thành tài, trở nên người hữu ích, là có thật, như lời Chúa Giêsu nói: “khi người ta bắt nộp các con, các con đừng lo nghĩ phải nói gì, vì chưng, không phải các con nói, nhưng chính Thánh Thần của Cha nói trong các con”. Cơ hội tiếp nối truyền thống của tiền nhân, là có sức mạnh và tình yêu Chúa, là để Thánh Thần mách bảo đường đi nước bước, dẫn đến chân lý vẹn toàn. Tình yêu thật, khôn ngoan thật, cũng là cơ hội “thành nhân, thành người hùng tài” theo truyền thống đức tin như Chúa Giêsu diễn tả: “vì Danh Thầy, các con sẽ bị người đời ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ”.
Các thánh tử đạo Việt Nam không giầu tiền của, không bận tâm đến lý lẽ thế gian, nhưng các ngài có sức mạnh của tình yêu, có đủ ý chí tự do, hầu chứng minh với con cháu: thành người, thành danh, thành tài, là nhờ bởi tình yêu Đức Kitô. Nếu thế gian cho rằng: không gì quý hơn mạng sống, ở trong Đức Kitô, hẳn người tín hữu sẽ đủ khôn để nói: không gì quý hơn sự thuỷ trung với ơn gọi nên người tốt, nên muối men cho gia đình, xã hội. Chí khí trung kiên của tiền nhân đã thể hiện được tính anh hùng, các ngài sẽ còn hiệp thông và chuyển cầu cho con cháu biết liên đới sống mầu nhiệm đức tin: không hổ thẹn với trời đất, không vô ơn với bậc sinh thành. Cho dù khó khăn gian khổ còn đó, nhưng kinh nghiệm và phúc lộc của tiền nhân vẫn đang nhắc bảo: bao lâu bạn chưa bỏ cuộc, cơ hội thành người hữu ích, thành môn đệ Đức Kitô là sự thật. Amen.
Jorathe Nắng Tím
Vào những Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy nghĩ nhiều hơn về giờ chết, về biến cố Con Người thình lình đến “như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). Kinh Thánh trình bày ngày cánh chung dưới hai dạng : dạng thứ nhất như tai họa hình phạt sụp đổ trên những người tội lỗi, dạng thứ hai như cuộc gặp gỡ con người với Thiên Chuá, Đấng xét xử công bình nhưng rất bao dung, nhân từ, giầu lòng thương xót mà Tin Mừng Mátthêu đề cập đến trong Chúa Nhật này.
Đó là cuộc gặp gỡ Đức Giêsu. Tuy là cuộc gặp gỡ mang tính quyết định, nhưng Đức Giêsu không xuất hiện như quan toà nghiêm khắc, “bới lông tìm vết” để trừng phạt, nhưng như ông chủ tốt lành và “biết điều” đã đánh giá công trạng của đầy tớ trên khả năng sinh lợi vốn liếng đã nhận.
Ông chủ tốt lành ấy đã trao cho các đầy tớ mỗi người một số nén bạc khác nhau, và điều mong uớc duy nhất của ông là các đầy tớ không bỏ quên hay coi thường những nén bạc “vốn liếng” được trao ban ấy, nhưng tìm cách sinh lợi tùy theo khả năng riêng mỗi người.
Ở đây chúng ta thấy : ông chủ đã không cho đồng đều các đầy tớ cùng một số lượng vốn liếng, nhưng rất khác nhau : người thì năm nén bạc, người khác hai, người chỉ có một, vì khả năng sinh lợi Thiên Chúa ban cho mỗi người không giống nhau, không cùng độ lượng, nhưng tất cả đều chung một đòi hỏi là phải sinh lời.
Vì thế, lòng ganh ghét khi thấy người khác tài giỏi, khéo léo hơn mình là điều thật vô lý, vì như một thân thể, mỗi chi thể có vai trò, nhiệm vụ khác nhau, như tất cả chúng ta không có cùng sứ vụ trong Giáo Hội, nhưng tất cả đều quy về lợi ích chung của Thân Thể mầu nhiệm Đức Kitô.
Vấn đề được Đức Giêsu đặt ra với mỗi người ở đây chính là chúng ta đã làm gì với ơn huệ Thiên Chúa đã ban trên hành trình dương thế?
Có rất nhiều ơn huệ, nhưng tất cả đều xuất phát từ Đức Giêsu và quy hướng về Đức Giêsu, nên việc sinh lời các ơn huệ được ban cũng phải nằm trong qũy đạo của Đức Giêsu. Nói cách khác, chúng ta nhận vốn liếng để kinh doanh “Danh Thiên Chúa, Ý Thiên Chúa, Nước Thiên Chúa”. Mà “danh Thiên Chúa” là Thiên Chúa Tình yêu ; “Ý Thiên Chúa” là mọi người yêu mến Thiên Chúa, và yêu thương anh em như chính mình ; “Nước Thiên Chúa” là mái ấm hạnh phúc, là gia nghiệp đời đời dành cho những ai sống yêu thương. Và bởi “Thiên Chúa là Tình Yêu”, nên tất cả những nén bạc nhận được từ Thiên Chúa đều là những nén bạc Tình Yêu.
Những nén bạc tình yêu ấy là khả năng yêu thương Thiên Chúa ban cho mỗi người và đòi hỏi phải sinh lời khi phát triển khả năng yêu thương ấy để “yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em” vừa là lệnh truyền của Thiên Chúa, vừa là tiêu chuẩn Thiên Chúa dùng để đánh giá công tội của mỗi người ở buổi gặp gỡ đời đời với Thiên Chúa, mà không một ai sẽ được chuẩn chước, miễn trừ.
Thực vậy, bài đọc thứ nhất trích từ sách Châm Ngôn nói về người đàn bà hoàn hảo, người vợ tuyệt vời : “Nàng qúy giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc, chứ không gây tai hoạ cho chồng… Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ, và đưa tay cứu kẻ khốn cùng… Chồng nàng được tiếng thơm nơi cổng thành khi ngồi cùng với hàng kỳ mục trong dân… Con nàng đứng lên ca ngợi nàng có phúc, chồng nàng cũng tấm tắc ngợi khen… Hãy để cho nàng hưởng những thành qủa tay nàng làm ra. Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng do những việc nàng làm” (Cn 31,10-12. 20. 23.28.31).
Chọn hình ảnh người đàn bà đáng yêu, người vợ đáng qúy và đặt vào bên cạnh bài Tin Mừng “những nén bạc” đã không là điều ngẫu nhiên, nhưng nằm trong ý của Giáo Hội với chủ đích nói lên khả năng yêu thương là nén bạc qúy giá vô cùng Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người, và mỗi người phải sinh lợi cho Thiên Chúa, vì hạnh phúc của chính mình, khi sống giới luật Yêu Thương trong cuộc sống trần gian.
Và bài đọc hai, khi nhắc đến “tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày” (1 Tx 5,5), thánh Phaolô khuyên nhủ mỗi người hãy bước đi trên hành trình yêu thương, khi trang bị cho mình “áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Tx 5,8), để khi Chúa đến, không ai trong chúng ta phải hụt hẫng, ngỡ ngàng, vì còn say sưa, mê ngủ…
Như thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã một đời yêu mến Chúa và các linh hồn, một đời phụng sự Chúa và phục vụ chị em trong nhà với tình yêu tha thiết, nồng nàn, chúng ta nài xin Chúa đổ tràn tình yêu của Ngài trong trái tim cằn cỗi, chật hẹp của chúng ta, để mỗi ngày chúng ta biết yêu thương nhiều hơn, phục vụ anh em ân cần, tận tụy hơn, bởi đến ngày giờ Chúa gọi, hành trang duy nhất đáng được Chúa xót thương khi đến trình diện trước tôn nhan Ngài sẽ chỉ là những Nén Bạc Tình Yêu đã được sinh lợi.
Bông hồng nhỏ
Khi yêu, người ta có rất nhiều cách để bày tỏ tình yêu với người mình yêu. Yêu mến Thiên Chúa, ta cũng khao khát được diễn tả tình yêu của mình. Thiên Chúa yêu ta, Người đã xuống thế làm người, chịu chết trên thánh giá để cứu chuộc ta. Yêu mến Chúa, ta sẽ làm gì đây?
Hôm nay, nghe Thầy Giêsu kể chuyện về những đầy tớ được chủ trao cho các nén bạc, ta ngẫm về cuộc đời của mình. Những đầy tớ được chủ trao cho nén bạc, mỗi người tùy theo khả năng mà được lãnh nhiều hay ít, họ đã cố gắng làm ăn sinh lời. Ông chủ khen họ là đầy tớ trung thành, cho họ được vào chung hưởng niềm vui của chủ. Nhưng, có một người, một người đã lười biếng không chịu làm ăn sinh lời, anh đem chôn giấu số bạc chủ trao. Anh bị quở trách, bị tước mất số bạc đã được trao cho và bị đẩy vào chỗ tối tăm. Ta là ai trong hai hạng người ấy?
Chúa Giêsu đã nói: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5, 17). Con người làm việc để có của ăn nuôi sống mình, xây dựng quê hương xứ sở mình. Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Ngài thánh hóa công việc và mặc cho nó một tinh thần mới. Con người làm việc không phải chỉ để có cơm bánh hằng ngày nhưng vượt lên trên những giá trị tự nhiên ấy, làm việc là để tôn vinh Thiên Chúa và để bước vào chung hưởng hạnh phúc đời sau với Ngài. Bởi thế, khi các đầy tớ được chủ trao cho những nén bạc, lập tức, người lãnh năm yến đi làm ăn và sinh lời được năm yến khác, người lãnh hai yến cũng đã sinh lời được hai yến khác. Cả hai người này đều được ông chủ tán thưởng: “Khá lắm! Hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25, 21. 23). Những tháng ngày làm việc gian khổ, lao nhọc, những giọt mồ hôi và nước mắt cùng bao công khó của họ đã được bù lại bằng niềm hạnh phúc tuyệt vời. Có một người được lãnh một nén bạc, anh đã đi chôn giấu số bạc ấy với hy vọng nó sẽ không bị thất thoát. Điều gì làm cho anh lo sợ đến nỗi phải giấu số bạc ấy đi? Anh lo sợ thất bại hay vì quá biếng nhác. Anh thiếu tin tưởng vào chủ của mình, không yếu mến chủ. Với anh, ông chủ là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi (x. Mt 25, 24). Anh đã trả lại cho ông chủ những gì anh nhận được. Hành động của anh chẳng hề đẹp lòng ông chủ. Anh bị quở trách là người tồi tệ và biếng nhác. Thật đáng buồn thay!
Thiên Chúa đã ban cho ta những nén bạc nào? Những gì ta đang có: khả năng yêu thương của trái tim, trí tuệ, sức khỏe, thời gian,… đều là những nén bạc Chúa trao. Mỗi lần ta yêu thương ai, ta muốn trao cho người đó rất nhiều thứ. Ta có thể trao hiến cả bản thân ta nữa. Thiên Chúa yêu thương ta, Ngài đã trao cho ta những hồng ân tuyệt vời. Ngài đã trao ban cho ta những khả năng để ta có thể dùng tất cả những khả năng ấy để đem lại hạnh phúc cho mình và người khác. Hạnh phúc của ta không phải chỉ mình ta tận hưởng nhưng ta chỉ thật sự hạnh phúc khi được cùng người ta yêu chia sẻ những niềm vui nỗi buồn và cả những thành công hay thất bại trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã cùng ta chia sẻ kiếp người, Ngài đã tặng ban chính mình Ngài cho ta. Nếu ta chưa mở tâm hồn để đón Ngài ngự đến trong ta, Ngài vẫn kiên nhẫn chờ đợi, Ngài gõ của lòng ta luôn luôn. Ta có nghe thấy lời Ngài thúc giục trong nội tâm mình không? Đừng lo lắng hay sợ hãi! Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương, “Chúa là Đấng chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (x. Tv 102, 9-10). Thế nhưng, có những khi ta tận hưởng tất cả những gì Chúa trao như thể ta đã chẳng hề nhận lãnh của ai cái gì, cứ như thể, tất cả đều do công sức mình bỏ ra. Yêu Chúa, ta hãy sống theo lời Chúa dạy. Ta có nhận ra, chính lúc ta yêu thương anh chị em mình, phục vụ anh chị em bằng tài năng và tất cả tình yêu trong ta, với một tình yêu vô vị lợi thì ta sẽ thu được một khoản lời tuyệt vời không? Chính lúc ta yêu thương như Chúa dạy, ta đã chẳng yêu thương bằng trái tim của riêng mình mà chính Chúa Giêsu đang hành động trong ta. Hãy tin tưởng rằng: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể chịu được hết” (Pl 4, 13).
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã sửa dạy con. Con xin lỗi Chúa, vì từ bấy lâu nay con đã chỉ chạy theo ý riêng con mà lơ là với thánh ý Chúa. Cái tôi “vĩ đại” của con luôn làm cho con lạc xa Chúa. Con xin Chúa hãy kéo con về bên lòng Chúa, cho con nhận ra lỗi lầm của con, để con không sợ hãi mà chôn giấu những nén bạc Chúa trao nhưng gắng sức làm việc, cộng tác với ơn Chúa. Xin cho con luôn biết “lấy tình yêu để đền đáp Tình Yêu” theo gương mẫu của chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Con tạ ơn Chúa! Amen.
Anna Cỏ may
Khi kinh doanh hay buôn bán một sản phẩm gì, chúng ta luôn tính đến tiền lời. Tiền lời của mỗi sản phẩm có thể lên gấp hai, gấp năm nhưng cũng có lúc thua lỗ. Điều ấy tùy vào khả năng của mỗi người. Vậy khả năng đó từ đâu mà có?
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nén bạc mà kể cho các môn đệ rằng: “Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ” (Mt 25,14-18). Như vậy, khả năng mỗi người đang dùng là một ơn Chúa ban. Chúa ban cho người này năm khả năng, người kia hai khả năng và người nọ một khả năng. Những khả năng đó có thể là khả năng âm nhạc, khả năng ngoại ngữ, khả năng kinh doanh hay các khả năng khác. Chúng ta được tự do sử dụng những khả năng đó. Có không ít người đã thành công trong cuộc sống từ những khả năng đó, nhưng họ đã thất bại trong các mối tương quan. Bởi, họ dùng những khả năng đó để vun vén, quy hướng về mình. Cũng có những người biết dùng những khả năng mình có để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Nhiều khi, họ cảm thấy mệt và chẳng ai biết đến, nhưng họ vẫn có được niềm vui và bình an trong tâm hồn. Đây cũng là điều mà Chúa Giêsu đang chờ đợi khi giao những khả năng cho chúng ta. Ngài lấy làm vui khi mọi người biết tận dụng và phát huy khả năng của mình để sinh ích cho anh em mình. Ngài sẽ ban thưởng và cho họ vui hưởng niềm vui chung với Ngài trên Nước Trời (x. Mt 25, 21-23). Trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô tông đồ đã viết: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác” (1Pr 4,10). Như vậy, ơn riêng Thiên Chúa ban được sinh ích thật sự khi chúng ta biết dùng mà phục vụ người khác.
Nhìn lại chính mình, tôi đang được Chúa ban cho những khả năng, ơn riêng nào? Chúa đang chờ đợi tôi điều gì? Tôi đã và đang thực hiện khả năng Chúa ban ra sao? Những khả năng ấy đem lại cho tôi điều gì?
Lạy Chúa, Chúa là Đấng Thiện Hảo. Ngài có quyền trao ban khả năng cho chúng con. Xin cho chúng con biết sử dụng các khả năng Chúa ban để mưu ích cho anh em mình. Như thế, những khả năng Chúa ban mới thật sự sinh lời và đem lại hạnh phúc cho chúng con. Amen.
Thiên San
Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành. Muôn loài muôn vật đều do bởi Ngài mà ra. Ngài tiếp tục cho chúng ta là những thụ tạo được cộng tác vào công trình sáng tạo khi cho chúng ta có cơ hội được lao động. Qua dụ ngôn “Những yến bạc”, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy dùng số bạc Chúa trao để sinh lời tùy theo khả năng riêng của mỗi người.
Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Ngài yêu thương khi dựng nên ta và cứu chuộc ta cách lạ lùng qua giá máu của Con Yêu Dấu. Ngài yêu thương, cứu độ ta không theo cách chung chung nhưng rất cá vị. Tình yêu ấy được diễn tả cách cụ thể khi Ngài tin tưởng trao ban cho chúng ta những nén bạc để từ số vốn đó, chúng ta sinh lời thêm tùy khả năng riêng. Khi trao ban nén bạc cho chúng ta, Thiên Chúa có vẻ không công bằng. Ngài trao cho người này năm nén, người kia hai nén, người nọ một nén (x.Mt 25,15). Rõ ràng là mỗi người được trao số bạc khác nhau. Nhưng nếu nhìn như vậy để nói Thiên Chúa không công bằng thì không phải. Thiên Chúa yêu ta cách rất riêng. Vì rất riêng nên Ngài biết rõ chúng ta có cá tính như thế nào, khả năng gì đề từ đó giao số vốn cho từng người. Số vốn của mỗi người tuy khác nhau nhưng tất cả đều được mời gọi làm sao cho số vốn sinh lời tùy theo khả năng riêng. Chúng ta biết rằng, một ly nước có thể tích một lít thì nó chỉ có thể chứa được một lít nước, còn ly kia có thể tích năm lít thì sức chứa của nó sẽ là năm lít. Cả hai đều nhận nước nước đầy tràn theo sức chứa của mình. Chúa trao nén bạc cho mỗi người chúng ta cũng theo cách hiểu đó. Điều quan trọng là khám phá ra nén bạc Chúa trao để nỗ lực sinh lời.
Nén bạc Chúa trao Chúa trao tuy khác nhau về số lượng nhưng tất cả đều được lấy ra từ số vốn của Ngài. Bổn phận của chúng ta là tra tay làm việc ngay. Thái độ vui vẻ tra tay làm việc của người vợ trong sách Châm ngôn (31,13) rất đáng cho ta học hỏi. Với số vốn được trao, chúng ta cũng hãy vui vẻ làm việc hầu có thể sinh thêm lời. Đó là cách thức chúng ta có thể làm vui lòng Ngài. Mỗi người hãy cứ luôn tin tưởng và nỗ lực hết mình, phần còn lại đã có Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng mình không thể làm gì có ích. Không ai là người vô dụng, chỉ có những người lười biếng mà thôi. Chúng ta cũng đừng bao giờ nghi ngờ Thiên Chúa để rồi sợ hãi đem chôn số bạc ấy xuống đất. Nếu hiểu sai về Thiên Chúa, chúng ta sẽ làm sai ý Ngài. Một khi đã trao cho ta những nén bạc thì Thiên Chúa đã rất thương và tin tưởng ta, Ngài biết ta làm được. Mỗi ngày sống mở ra là những nén bạc Thiên Chúa trao vào tay ta để ta cộng tác, để ta sinh lời. Nén bạc đó có thể là thời gian, sức khỏe, khả năng, gia đình, bạn bè, công việc ta đảm nhận… Từ bây giờ, mỗi người hãy biết quý trọng tất cả những gì Thiên Chúa ban để làm cho cuộc sống thêm tươi đẹp, thêm tình yêu thương và đầy ắp sự hiện diện của Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa chúng con thờ! Chúng con xin chân thành cảm tạ Chúa vì đã luôn tin tưởng, yêu thương, quan tâm đến chúng con. Xin cho chúng con biết vui vẻ làm việc vì đó là cơ hội để chúng con cộng tác vào công trình sáng tạo của Chúa, đó cũng là cách chúng con làm cho nén bạc Chúa trao được sinh thêm nhiều lợi nhuận. Nhờ đó, chúng con được hưởng “niềm vui của Chủ mình” trong ngày sau hết. Amen.
Trầm Thiên Thu
Thiên Chúa nhân lành, công bằng và không thiên tư. Ngài tạo dựng chúng ta thì Ngài dành phần riêng cho mỗi người, không phải người được nhiều, kẻ được ít, mà Ngài biết rõ ai có thể làm gì thì Ngài ban cho đủ “vốn” để làm, nhưng là để sinh lợi cho người khác chứ không phải bo bo giữ lấy. Đừng ghen ăn tức ở như nhóm Pharisêu, Sađốc, kinh sư, luật sĩ,…
Bất cứ ai cũng được Thiên Chúa cấp vốn, nghĩa là ai cũng có tài này hay tài nọ, không ai hơn hoặc kém, nhưng cần cộng tác và cố gắng hết mình. Albert Einstein phân biệt: “Sự khác biệt giữa kẻ ngu xuẩn và thiên tài là thiên tài biết giới hạn của mình. Kẻ ngu xuẩn nào cũng có thể khiến mọi thứ trở nên to hơn, phức tạp hơn và bạo lực hơn. Cần có thiên tài – và nhiều dũng khí – để biến chuyển ngược lại. Người trí thức giải quyết rắc rối, bậc thiên tài ngăn chặn rắc rối.” Còn Thomas Edison xác định: “Thiên tài là một phần trăm cảm hứng và chín mươi chín phần trăm mồ hôi.”
Tất cả là do ơn Chúa, kể cả thời gian, chúng ta chỉ quản lý – vừa là quyền vừa là trách nhiệm. Kinh Thánh nói: “Bản thân chúng ta, cùng với ngôn từ, với toàn bộ trí tuệ và tài năng, tất cả đều nằm trong tay Thiên Chúa.” (Kn 7:16) Người tài năng thường được tỏa sáng trong im lặng, còn kẻ kém cỏi thường tự lan tỏa bằng âm thanh.
Cuộc sống có những chữ T gây ra nhiều phiền toái – Tình, Tiền, Tội, Tù, vì 4 T đó mà có thể Tử. Phần riêng có tốt và có xấu: “Chúa đổ mưa tai họa xuống đầu ác nhân; lửa đỏ, diêm sinh và gió nóng là phần riêng của chúng trên đời.” (Tv 11:6) Đó là phần riêng cho ác nhân, theo luật công bằng chứ Thiên Chúa chẳng ghét bỏ ai. Ở hiền thì gặp lành, nhưng đôi khi người hiền lành lại hay vướng “cái eo” đau khổ, phần riêng đó chỉ để bụng mà thôi: “Nỗi đắng cay chỉ riêng lòng mình biết, niềm hân hoan đâu chia sẻ được với người ngoài.” (Cn 14:10)
Chúa Giêsu dạy từ bỏ mình, quên mình chứ không quên người khác, hy sinh tư lợi vì lợi ích chung – công ích. Thánh Phaolô cho biết: “Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào. Anh em sẽ được sung túc mọi bề để làm mọi việc thiện cách rộng rãi. Những việc chúng ta làm sẽ khiến người ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Thật thế, việc phục vụ cho công ích này không những đáp ứng nhu cầu của của các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, còn là nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa. Việc phục vụ này là một bằng cớ cho họ tôn vinh Thiên Chúa, vì thấy anh em vâng phục và tuyên xưng Tin Mừng của Đức Kitô, và vì thấy anh em có lòng quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với họ và với mọi người.” (2 Cr 9:10-13) Thực hiện công ích là thực thi Đức Ái, sống vì người khác là thể hiện lòng thương xót.
Trong Giáo huấn Xã hội Công giáo, công ích là một trong bốn nguyên tắc chính: [1] Nhân phẩm, [2] Công ích, [3] Bổ trợ, [4] Liên đới. Nói về công ích, có thể chúng ta cảm thấy xa lạ, nhưng thật ra rất gần gũi, vì công ích được phát xuất từ gia đình, mà gia đình lại chính là nền tảng của xã hội. Thật vậy, Kinh Thánh nói: “Tìm đâu ra một người vợ đảm đang? Nàng quý giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tai họa cho chồng. Nàng tìm kiếm len và vải gai, rồi vui vẻ ra tay làm việc.” (Cn 31:10-13) Tiền tuyến luôn cần hậu phương. Người vợ âm thầm làm việc, với đủ thứ việc “không tên,” các việc lặt vặt mà không nhỏ, rất cần thiết để tạo nên Tổ Ấm, duy trì hạnh phúc thực sự trong gia đình.
Phụ nữ được Thiên Chúa ban cho tính cách độc đáo lắm: “Nàng tra tay vào guồng kéo sợi, và cầm chắc suốt chỉ trong tay. Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.” (Cn 31:19-20) Cái tính nết đã đặc biệt rồi, mà cái tâm cũng khác lạ. Thật tốt lành. Nàng dịu hiền vì nàng là phụ nữ. Quả thật, nét dịu dàng rất cần ở phụ nữ, ca dao đã đặt vấn đề: “Có ai bán cái dịu dàng, tôi mua một gánh tặng nàng làm duyên.” Lời này như nhắc nhở chị em nào chưa dịu dàng đủ mức thì cố gắng thêm.
Phái nào cũng cần nét duyên dáng, đặc biệt rất cần đối với nữ giới, nhưng không nên yểu điệu quá hóa kiểu cách, phản tác dụng, vì Kinh Thánh nói: “Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân. Người phụ nữ kính sợ Đức Chúa mới đáng cho người đời ca tụng. Hãy để cho nàng hưởng những thành quả tay nàng làm ra. Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng do những việc nàng làm.” (Cn 31:30-31) Nét duyên dáng tâm linh mới thực sự cần thiết, nhưng giáo dân hoặc tu sĩ đều có dạng “chảnh” đặc trưng.
Nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền là “tam giác sống” ai cũng có. Ngày nay, cả đời và đạo không còn nhìn phụ nữ như thời quân chủ, mà có tầm nhìn sâu rộng hơn về vị trí nhất định của nữ giới. Kinh Thánh nói: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái, và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn.” (Tv 128:1-3) Hình ảnh gia đình hạnh phúc được mô tả rõ nét. Thánh Vịnh này rất quen thuộc vì thường được dùng làm đáp ca trong các lễ cưới, đặc biệt là lễ Thánh Gia – gương mẫu cho các gia đình.
Đó cũng là hình ảnh Giáo Hội luôn đầy tràn hồng ân Thiên Chúa. Thánh Vịnh ca ngợi: “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người. Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu.” (Tv 128:4-6) Đó là hạnh phúc thực sự đáng mơ ước, vì hạnh phúc đó chính là Ơn Thánh do Thiên Chúa trao ban.
Trong cuộc sống đời thường, người ta nhắc nhở: “Đừng ngủ quên trên chiến thắng!” Nhắc nhở mà là cảnh báo, rất cần thiết, bởi vì con người dễ ảo tưởng mà tự mãn. Ma quỷ rất mưu mô xảo quyệt luôn tìm mọi thủ đoạn để giành lấy linh hồn chúng ta, nó gài bẫy chúng ta bằng sự ảo tưởng để tạo thói kiêu ngạo. Được người ta khen khi chúng ta làm được điều gì đó “có vẻ hay” một chút, chúng ta rất dễ “lên mặt,” cứ tưởng mình là “cái rốn” của vũ trụ, cứ tưởng mình có đầy bụng chữ, rồi coi thường người khác. Xã hội Việt Nam ngày nay có nhiều “giáo sư, tiến sĩ” hợm mình kiểu như vậy. Thảo nào cụ thi hào Nguyễn Du đã khuyến cáo: “Có tài mà cậy chi tài, chữ TÀI liền với chữ TAI một vần.” (Truyện Kiều, câu 3247-3248) Và cụ xác định: “Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI.” (Truyện Kiều, câu 3252) Chữ Tài thiếu dấu huyền hóa chữ Tai, nghĩa là có TÀI chưa đủ mức thì hóa TAI. Việt ngữ vô cùng độc đáo!
Chuyện xa lân la chuyện gần, chuyện gần phân vân chuyện xa. Về ngoại hình, đối với cả nữ và nam, khi tự thấy mình có ngoại hình “coi được” một chút là đã “chảnh” lắm rồi, cộng thêm “giỏi” một chút nào đó nữa thì mức độ càng tăng thêm. Thậm chí ngay cả khi làm công việc đạo đức, từ thiện, công ích,… người ta cũng “dám” lấy ngoại hình của mình mà “lấn át” người khác. Chính mình “chảnh” mà lại không nghĩ vậy, quên rằng “sắc đẹp là những cánh hoa hồng sẽ bị thời gian tỉa dần.” Ý tưởng nông cạn như thế thì nguy hiểm vô cùng! Hãy học thuộc lòng câu Kinh Thánh này: “Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân.” (Cn 31:30) Cố gắng đè bẹp “cái tôi” xuống.
Mọi thứ có liên quan lẫn nhau – từ cái nhỏ tới cái lớn, từ điều đơn giản tới điều phức tạp, từ chỗ xa tới chỗ gần, phong cách tiệm tiến và lung khởi. Thánh Phaolô căn dặn: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: ‘Bình an biết bao, yên ổn biết bao!’ thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được.” (1 Tx 5:1-3) Ý tưởng tỉnh thức này luôn xuất hiện trong Công giáo, bất kỳ thời điểm nào, đặc biệt là mùa Chay, mùa Vọng, mùa Cầu Hồn và cuối năm.
Cố gắng tỉnh thức là sống khôn ngoan, biết sống khôn ngoan là biết sống trong đức ái – một trong ba nhân đức đối thần quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Thánh Phaolô giải thích: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ.” (1 Tx 5:4-6) Có cái này thì có cái kia, không có cái kia thì chẳng có cái nọ. Tính liên đới lạ lùng lắm.
Chúa Giêsu đã từng so sánh và xác định: “Con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng.” (Lc 16:8) Cái “khôn ngoan” ở đây không phải là một lời khen, mà là lời cảnh báo và chê trách. Khôn ngoan ở đây là khôn lỏi, khôn ranh, ma mãnh, mưu mô, xảo quyệt,… Ngày nay gọi là “đểu,” không là “đểu giả” mà “đểu thật,” đểu chính hiệu.
Trình thuật Mt 25:14-30 (≈ Lc 19:12-27) đề cập dụ ngôn “những yến bạc.” Khi sắp đi xa, ông chủ gọi đầy tớ đến để giao phó của cải. Người này được ông trao cho năm yến, người kia hai yến, người khác một yến, tùy khả năng riêng mỗi người. Sau đó, người lãnh năm yến đi làm ăn buôn bán, sinh lời được năm yến khác, và người lãnh hai yến sinh lời được hai yến khác, còn người lãnh một yến đi đào lỗ để chôn giấu. Một thời gian sau, ông chủ về tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ.
Mọi người lần lượt tính sổ. Người lãnh năm yến tiến lại và đưa năm yến khác, người lãnh hai yến cũng tiến lại và đưa hai yến khác. Ông chủ khen hai người này: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Hạnh phúc nhãn tiền, sự công bằng chính đáng.
Rồi người lãnh một yến cũng tiến lại và phân bua: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” Ông chủ thẳng thắn và nghiêm nghị nói: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
Nơi tối tăm đó chẳng phải là nơi hang động âm u hoang vắng, thiếu ánh sáng, cũng chẳng phải là chốn Luyện Hình, mà chính là Hỏa Ngục. Đúng là dốt mà chảnh, ngu mà kiêu. Đã kém cỏi mà không dám nhận, còn đổ lỗi cho người khác. Loại người này cũng thấy xuất hiện thường xuyên trong xã hội Việt Nam ngày nay. Theo báo Thanh Niên, mỗi năm Việt Nam mất 2.500 ha rừng, thế nên lũ lụt xảy ra dữ dội hơn, nhưng giới hữu trách lại biện hộ với các lý do rất ngớ ngẩn, thậm chí là ngu xuẩn.
Phàm nhân chúng ta chỉ là thụ tạo, là đầy tớ của Chủ Nhân Thiên Chúa. Mỗi chúng ta đều được Ngài trao cho đồng đều: Nhân vị, nhân phẩm, nhân quyền, và sự tự do. Ngài trao cho mỗi người khác nhau về số nén, loại nén, và kiểu nén. Nhưng vấn đề quan trọng là chúng ta có sinh lời hay không, tức là làm lợi cho chính mình và tha nhân. Nếu chỉ làm lợi cho mình thì là ích kỷ, muốn lên Thiên Đàng một mình cũng là ích kỷ. Chúng ta như bức tượng được nhà điêu khắc tạo ra, không có quyền than phiền bất cứ điều gì đối với nhà điêu khắc.
Chắc chắn không ai là kẻ bất tài hoặc vô dụng, người có tài này, kẻ có tài kia; người giỏi trong lĩnh vực này, kẻ giỏi trong lĩnh vực khác. Có tài để cộng tác với Thiên Chúa chứ không phải là để vinh danh mình. Hơn người khác về lĩnh vực nào đó thì đừng vội ảo tưởng được Thiên Chúa “ưu tiên” hoặc “cưng” hơn. Vĩ nhân Pythagore (570-495 trước công nguyên) nhận định: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại.” Ông là một thiên tài vĩ đại (triết gia, nhạc sĩ, chính trị gia, nhà đạo đức học, nhà toán học, nhà siêu hình học,…), nhưng ông rất sợ thói kiêu ngạo. Thế thì chúng ta là gì mà dám vênh váo tự đắc chứ? Vỏ quýt dày thì có móng tay nhọn.
Thật chí lý khi biết nhận diện chính mình và khiêm nhường, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Thật vậy, những gì chúng ta lãnh nhận không phải để sở hữu riêng mà phải làm vì lợi ích chung. Chúa Giêsu khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11:29) Quả thật, bài học khiêm nhường chỉ có thể học được ở Trường Siêu Đẳng của Thầy Giêsu mà thôi.
Lạy Thiên Chúa chí thánh, xin tạ ơn Ngài ban phần riêng cho chúng con, mỗi người mỗi khác, để chúng con cộng tác và bổ túc lẫn nhau. Xin ban ơn khôn ngoan để chúng con sinh lời theo đúng ý Ngài, và xin giúp chúng con nhận biết mình bé nhỏ và kém cỏi, bất túc và bất trác. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
[*] Giáo huấn Xã hội Công giáo cho biết: “Công ích được hiểu như là những điều kiện xã hội cho phép mọi người đạt đến trọn vẹn tiềm năng con người và nhận ra nhân phẩm của mình.” Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, nguyên tắc công ích cho thấy nhu cầu về các cơ cấu quốc tế để có thể thúc đẩy sự phát triển cá nhân và gia đình vượt ra khỏi ranh giới quốc gia và khu vực. Sự thiếu vắng cảm thức về công ích là dấu chỉ chắc chắn về sự xuống cấp của xã hội. Cảm thức cộng đồng bị xói mòn sẽ dẫn đến các dạng suy thoái về công ích, từ đó có thể dẫn tới các hệ lụy khác gây ảnh hưởng xấu.
Lm Vũđình Tường
Dụ ngôn quà tặng, hay tài năng xác định tất cả những gì tốt lành con người có đều là của Chúa ban. Đó có thể là khôn ngoan, trí thông minh, nghệ thuật ca múa, kịch nghệ, sức khoẻ và ngay cả đời sống. Tất cả đều đến từ Thiên Chúa. Ngài mong đợi con người phát triển những tài năng đó, trước hết để nuôi thân và quan trọng hơn hết làm sáng Danh Chúa qua phục vụ đồng loại là Dân Chúa. Thiên Chúa không mong đợi con người lập những kì công vĩ đại, nhưng qua việc bác ái đơn giản, Thiên Chúa biến những việc đơn giản, nhẹ nhàng đó thành kì công, vĩ đại, mang lại ích lợi cho dân Ngài. Mọi tham vọng mong đạt được thành quả ngoài giới hạn khả năng con người đều là những việc làm vô bổ. Tham vọng đó không đến từ Thiên Chúa mà do khao khát riêng của con người. Cố gắng chứng minh Thiên Chúa không hiện hữu là một tham vọng hoài công, ngoài khả năng con người. Bởi nếu không có Ngài, sẽ chẳng có ta và khả năng hạn hẹp của ta không thể nào hiểu được tình yêu của Ngài.
Chân thành, thành tín dẫn ta đến gặp Chúa. Ẩn nấp sau bất trung và gian dối là đường dẫn đến diệt vong. Chân thành, thành tín là đường ngay thẳng, tốt lành. Chúng là ánh sáng soi sáng tâm trí ta, là đường lành hướng dẫn ta hành động công chính và là đường lối của Thiên Chúa. Kêu gọi dân chúng tiết kiệm khi về hưu dưỡng, người ta nói ‘Thành công vĩ đại có nguồn gốc từ thành công nhỏ’. Chân thành, thành tín trong việc nhỏ tiếp sức niềm tin lớn là tinh thần bài đọc hôm nay.
Dụ ngôn kể vị chủ kia trước khi đi xa gọi gia nhân đến trao của cải của ông cho họ coi sóc. Mỗi gia nhân nhận được tuỳ theo khả năng cuả họ. Thời gian chủ trở về không xác định, nhưng việc chủ trở về là chắc chắn. Hai gia nhân đầu yêu mến chủ và sẵn sàng phục vụ hết khả năng mình. Họ thành công trong việc làm lợi cho chủ. Điều này cho biết chủ đánh giá xác thực tài năng của hai gia nhân. Chủ rất vui và trao cho họ thêm nhiều hơn nữa để họ tiếp tục làm lợi cho chủ. Người gia nhân còn lại tin vào phán đoán của nguời khác cho chủ là ‘Người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế tôi sợ, chôn giấu yến bạc của ông. Của ông, xin trả lại ông’. c.25. Người gia nhân này đâu biết khi anh ta phê phán chủ anh cách hà khắc lại là phê phán chính bản thân anh. Lời phê phán vay mượn này không phải do anh biết về chủ mà nghe người ta nói về chủ và anh tin vào điều đó. Bởi đặt niềm tin sai chỗ nên anh hành động sai. Sợ hãi về chủ làm tê liệt chí khí anh. Chính sợ hãi làm cho con người anh ra hèn nhát, yếu đuối, sợ không dám mạo hiểm. Hy sinh, mạo hiểm là thực tế trong cuộc sống. Không thật sự hy sinh, sao có tình yêu thật. Không dám mạo hiểm, không việc gì được thực hiện. Ông chủ muốn gia nhân học mạo hiểm từ ông bởi khi giao tài sản cho gia nhân là một mạo hiểm lớn. Ông chủ đã đi con đường mạo hiểm đó tiến đến thành công.
Gia nhân thành tính luôn làm việc hết khả năng, dù chủ ở gần hay khi khuất mặt, họ vẫn chăm chỉ làm việc vì họ không coi mình là người làm thuê mà làm việc của chủ như việc của chính họ, bởi hành động của họ được hướng dẫn bởi con tim chân thành. Gia nhân bất trung ghét công việc nhưng lại thích quyền hành. Đối xử với người khác bằng quyền lực là dấu chỉ của yếu kém, bất tài nên dùng quyền lấn át người khác. Dùng quyền xử tệ với nhau làm cho gánh nặng cuộc đời trở nên nặng nề. Chủ thưởng cho gia nhân thành tín và phạt nặng gia nhân bất trung. Chúng ta xin ơn khôn ngoan biết dùng tài năng Chúa ban để làm sáng Danh Chúa qua phục vụ tha nhân.
ĐẦU TƯ VÀO CỦA CẢI, TÀI NĂNG, ÂN HUỆ CHÚA BAN
Lm Trần Bình Trọng
Theo thông lệ được sử sách ghi lại ở những nước miền Cận Ðông như Ai Cập, Át-sua và Pa-lét-tin, thì khi một người giàu có trẩy đi xa nhà và dài hạn, họ thường giao tài sản cho những đầy tớ tín cẩn, ít hay nhiều, tuỳ theo khả năng của mỗi người (1). Dụ ngôn trong Phúc âm hôm nay kể lại người đầy tớ nhận được năm yến bạc biết ông chủ mong mình đầu tư để kiếm lời và anh ta đã làm lời được năm yến nữa. Người nhận được hai yến, mặc dù ít hơn, cũng đầu tư để sinh lời. Theo tỉ lệ phần trăm, thì người đầy tớ làm lời thêm hai nén, cũng thành công như người đầy tớ sinh lời thêm năm yến. Cả hai người cùng cố gắng đầu tư để sinh lời cho những nén bạc của chủ, và do đó được ơn nghĩa với chủ. Tại sao hai người đầy tớ đầu tư đều được lời gấp đôi như vậy? Thưa là thế này. Vào thời đó mà người ta cho vay tiền trong thời gian dài hạn, thì được lãi xuất rất cao (2) .
Còn người đầy tớ chôn vùi một yến bạc của chủ có đủ khả năng để làm việc nhỏ được trao phó. Tuy nhiên, khi nhận được yến bạc, anh ta đã đem chôn cất đi. Anh ta chỉ nói lí do là sợ hãi vì ông chủ hà khắc và còn là người keo kiệt nên mới đem chôn yến bạc của chủ để có thể trả lại tiền vốn nguyên vẹn cho chủ, không lời cũng không lỗ. Vì lười biếng và thiếu tinh thần trách nhiệm, anh ta đã bị ông chủ sa thải và trách phạt. Những lí do khác nữa mà anh ta không nói ra có thể là bất mãn với chủ vì chủ chỉ trao có một yến bạc, hoặc là anh ta ganh tị với các bạn đầy tớ vì họ nhận được nhiều hơn. Có những học giả thánh kinh coi người đầy tớ biếng nhác là tượng trưng cho nhóm người kinh sư và Pharisêu. Họ là những người thông luật, nhưng lại câu nệ vào việc giữ luật một cách hẹp hòi và đóng cửa lòng lại trước tiếng gọi của Chúa và coi thường tha nhân.
Cũng như người chủ mong người đầy tớ dùng những yến bạc đã được trao phó để làm lời, Thiên Chúa cũng muốn người ta dùng của cải, tài năng và ân huệ Chúa ban để làm vinh danh Chúa. Chúa không đòi người ta phải trả nhiều hơn quá mức họ dã nhận được. Chúa chỉ đòi người ta trách nhiệm về của cải, tài năng và ân huệ đã được trao phó và sinh lợi theo tỉ lệ: nhận nhiều phải trả nhiều, nhận ít trả ít. Người được trao hai yến bạc sinh lời được hai yến nữa cũng được ông chủ khen thưởng là tài giỏi và trung thành (Mt 25:23) và còn được chủ hứa trao thêm và cho hưởng niềm vui của chủ như người nhận được năm yến mà làm lợi thêm năm yến nữa. Còn người không chịu dùng tài năng bé nhỏ mà chủ ban thì không có cơ hội phát triển cho nên tài năng bị cùn nhụt đi. Ðó chính là lời Chúa phán: Phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng bị lấy đi (Mt 25:29).
Bài học mà Chúa muốn dạy ta trong dụ ngôn hôm nay là tầm quan trọng của việc đầu tư vào đời sống thể chất, tinh thần và thiêng liêng. Theo thánh Phaolô thì mỗi người nhận được những ân huệ thiêng liêng khác nhau của Chúa: Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được thần khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ; người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ (1Cr 12:8-10).
Mỗi người còn nhận được những của cải vật chất và tinh thần. Có người có đầu óc thông minh, sáng tạo. Có người có khiếu về thể thao, âm nhạc. Có người có tư cách cao đẹp về bản ngã, nhân vị. Người khác có đời sống thiêng liêng cao sâu, có thể gợi cảm thiêng liêng nơi người tiếp súc. Ðiều quan trọng là người ta cần khám phá ra những của cải, tài năng và ân huệ mình có và tìm cách phát triển để làm lợi cho nước Chúa ở trần gian. Việc tìm cách phát triển của cải, tài năng và ân huệ là để làm vinh danh Chúa và phục vụ nhân loại chứ không nhằm mục đích chỉ để khoe khoang. Có tài năng mà người ta có thể không biết vì họ không chịu xử dụng. Khi dùng những tài năng mà mình có, người khác mới biết để mà phê phán và đánh giá. Khi được người khác đánh giá tích cực về tài năng của mình thì mình lại càng có hứng đề tự đào luyện hầu có thể phát triển thêm về tài năng của mình. Thơ của Hàn Mặc Tử lúc đầu chưa đặc sắc lắm. Tuy nhiên khi gặp những nguồn thi hứng khác nhau, thơ của chàng thư sinh trở thành bay bướm và được độc giả tán thưởng và ngưỡng mộ. Rồi một biến cố đến cho bản thân làm đảo lộn cuộc đời của tác giả. Bệnh cùi khiến Hàn Mặc Tử phải điên loạn, làm thay đổi cái nhìn về cuộc sống. Cuối cùng tìm được nguồn an ủi thiêng liêng từ nơi Thiên Chúa và Ðức Nữ Maria, Hàn Mặc Tử chấp nhận bệnh tật với tâm tình tin yêu phó thác và dâng hiến cuộc đời trong việc phục vụ đồng loại bằng những vần thơ rung cảm do nguồn cảm hứng siêu nhiên.
Như vậy thì mỗi người đều có số vốn để đầu tư: vốn về vật chất, tinh thần và đời sống thiêng liêng. Câu hỏi ta cần đề cập đến hôm nay là mỗi người đã dùng của cải, tài năng, ân huệ Chúa ban như thế nào? Mỗi người cần nhìn vào chính mình để tìm ra khoảng cách giữa tài năng mình có và công việc mình hoàn thành. Cũng như người chủ kì vọng vào các đầy tớ đầu tư vốn được trao phó để sinh lời cho ông, Thiên Chúa cũng muốn ta dùng của cải, tài năng và ân huệ Chúa trao ban để sinh lợi cho nước Chúa. Mỗi người tuỳ theo cơ hội, hoàn cảnh và điều kiện có thể, được gọi để dùng những của cải, tài năng và ân huệ Chúa ban một cách khôn ngoan và với tinh thần trách nhiệm hầu làm vinh danh Thiên Chúa và phục vụ đồng loại.
Lời nguyện xin cho biết đầu tư vào của Chúa ban:
Lạy Chúa, Chúa là nguồn mạch mọi tạo vật trên trời dưới đất.
Con xin tạ ơn Chúa đã ban cho mỗi người chúng con
số vốn vật chất, tinh thần và thiêng liêng để đầu tư vào đời sống.
Xin dạy con biết bằng lòng chấp nhận
những của cải, tài năng và ân huệ Chúa ban.
Xin đừng để con bao giờ phàn nàn kêu trách Chúa.
Và xin dạy con biết trung thành đầu tư vào số vốn
mà Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ đồng loại. Amen.
TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA ĐẾN
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mt 25,14-30
(14) Có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tới riêng của mình đến mà giao phó của cải mình cho họ. (15) Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, (16) người đã lãnh năm nén lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm nén khác. (17) Cũng vậy, người đã lãnh hai nén gây lời được hai nén khác. (18) Còn người đã lãnh một nén thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. (19) Sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến và thanh tóan sổ sách với họ. (20) Người đã lãnh nhận năm nén tiến lại gần, đưa năm nén khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm nén, tôi đã gây lời được năm nén khác đây”. (21) Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (22) Người đã lãnh hai nén cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai nén, tôi đã gây lời được hai nén khác đây”. (23) Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !”. (24) Rồi người đã lãnh một nén cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. (25) Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy !”. (26) Ông chủ đáp: “Hỡi tên đầy tớ tồi tệ và biếng nhác ! Ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, (27) thì đáng lý ngươi phải gởi số bạc của ta cho các chủ ngân hàng, để khi ta đến, ta thu hồi của thuộc về ta cùng với số lời chứ !”. (28) Vậy các ngươi hãy lấy nén bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười nén. (29) Vì phàm ai có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. (30) Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: Ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng”.
- Ý CHÍNH:
Tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến trong giờ chết và vào ngày tận thế. Chỉ những ai chu toàn nhiệm vụ làm lợi cho Chúa bằng tất cả khả năng Chúa ban, mới được kể là đầy tớ trung tín và sẽ được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời với Chúa.
- CHÚ THÍCH:
– C 15: + Nén bạc: là một đơn vị tiền tệ có giá trị tương đương với 6.000 quan tiền, tương đương 6.000 ngày công lao động. Đây là một số tiền rất lớn, nói lên lòng quảng đại của Thiên Chúa. Người trao các nén bạc tài năng, trình độ học vấn, của cải vật chất và địa vị xã hội… cho mỗi người. Số nén bạc được trao năm nén, hai nén và một nén, ám chỉ các ân huệ và tài năng được ban nhiều ít tùy theo khả năng mỗi người.
– C 18: + Đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ: Đây là thái độ tiêu cực và vô trách nhiệm của người đầy tớ được trao cho một nén. Những ai không sử dụng các tài năng và của cải Chúa ban để làm sáng danh cho Chúa tức là đã đem chôn giấu nén bạc được trao cho mình.
– C 29: + Phàm ai có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi: Ai tin vào Đức Giê-su và dùng ơn Chúa ban để làm vinh danh cho Chúa và phục vụ phần rỗi tha nhân thì sẽ được Thần Chân Lý giúp hiểu biết sự thật và ngày một nên hoàn thiện hơn. Còn những kẻ không yêu mến Chúa, thể hiện qua việc không làm lợi các nén bạc được trao, thì sẽ không được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau với Chúa.
– C 30: Khóc lóc nghiến răng: Một kiểu nói diễn tả các hình phạt của những kẻ không tin yêu Chúa. Họ sẽ chung số phận với ma quỷ muôn đời trong hỏa ngục, nơi đầy đau khổ và hận thù.
- CÂU HỎI: 1) Nén bạc là gì ? Giá trị thế nào ? Ám chỉ điều gì ? 2) Thái độ đào lỗ để chôn giấu số bạc của chủ là hành động của hạng người nào ? 3) Câu “Phàm ai có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa. Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” có ý nghĩa thế nào ? 4) Kiểu nói “Khóc lóc nghiến răng”ám chỉ người bị sa hỏa ngục phải chịu những hình phạt gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm ! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt 25,21).
- CÂU CHUYỆN:
1) HÃY LÀM MỌI VIỆC VỚI HẾT KHẢ NĂNG.
Sau khi đến thăm gia đình của một cô bạn cùng lớp vừa bị tai nạn xe cộ, cô bé Lin-đa trở về nhà. Cha cô đã nổi giận khi biết con gái vừa đến thăm tang gia của bạn. Ông trừng mắt nhìn Lin-đa và hỏi: “Tại sao con lại đến nhà người ta vào lúc này ?” Lin-đa trả lời: “Thưa ba, con đến là để giúp đỡ cho gia đình bạn ấy”. Ông bố lại hỏi: “Nhưng con thì làm được việc gì để giúp đỡ gia đình nhà họ ?” Lin-đa đáp: “Ba ơi, con chẳng giúp gì được cho gia đình bạn ấy cả. Con chỉ biết chạy đến ôm chầm lấy mẹ của bạn ấy mà khóc, và mẹ bạn ấy cũng ôm con vào lòng và cùng khóc với con”. Câu trả lời của Lin-đa đã làm cho cha cô hiểu ra rằng: Tuy Lin-đa không làm được gì nhiều cho tang gia, nhưng em đã làm tất cả những gì trong khả năng và tầm tay của mình để an ủi bà mẹ đang đau khổ vì vừa bị mất đứa con thân yêu.
2) LỜI TRĂN TRỐI CỦA MỘT NGƯỜI LÚC SẮP CHẾT:
Cách đây ít năm, một chiếc máy bay hàng không Nhật bản đã tông vào núi, cả 520 người thiệt mạng. Một thời gian ngắn trước khi máy bay rơi xuống vách núi nổ tung thì hành khách đã được phi hành đoàn thông báo cho biết máy bay họ đang đi đã bị mất điện và sắp bị rơi. Hành khách có vài phút để viết mấy lời từ biệt người thân.
Khi các nhân viên cấp cứu đến nơi máy bay bị rớt thì họ đã tìm thấy một cuốn lịch bỏ túi của một thương gia người Nhật. Trong đó, người thương gia đã ghi lại mấy hàng chữ run rẩy như sau: “Máy bay sắp bị rơi rồi… tôi buồn quá!”. Trang tiếp viết cho con cái : “Hãy sống tốt, làm việc hăng say, mà giúp đỡ cho mẹ các con”. Những hàng chữ run rẩy trong cuốn lich bỏ túi nói trên của một người biết mình sắp chết. Cái chết đã bất chợt đến mà không báo trước như tên trộm lúc đêm tối.
3) HÌNH ẢNH VỀ CUỘC PHÁN XÉT CHUNG:
Vào lễ Giáng sinh 1541, khi mở tấm màn che bức tranh khổng lồ của họa sĩ MICHEL-ANGELO về ngày phán xét chung, nhiều người chiêm ngưỡng đã phải rùng mình khiếp sợ, vì khuôn mặt của Chúa Giê-su không còn mang vẻ hiền lành của một Mục tử nhân lành, mà đã biến thành một vị Thẩm phán oai nghiêm công thẳng. Trong bức tranh, đã có hơn 300 hình ảnh nhỏ ghép lại: nào là hình các thánh Tông đồ, các thánh Tử đạo, các thánh Tiến sĩ, các Đức Giáo hoàng, những người giáo dân… Theo tiếng kèn thiên sứ, hết mọi người chết đều trỗi dậy và ra khỏi mồ để chịu phán xét chung. Có những hình ảnh về cha mẹ đang âu yếm khi gặp lại con cái; Hình bạn bè gặp nhau tay bắt mặt mừng… Thế nhưng, trong ánh mắt của mọi người đều biểu lộ một nỗi sợ hãi vì số phận đời đời của họ sắp được ấn định.
Đức Giê-su đã tiên báo về ngày cùng tận của thành Giê-ru-sa-lem ám chỉ về ngày tận thế. Vào năm 70 sau Công Nguyên, dân Do thái nổi loạn chống lại Đế quốc Rô-ma. Tướng Titus đã mang quân đến vây hãm thành nhiều ngày liền và họ triệt đường nước và lương thưc. Cuối cùng thì thành đã bị thất thủ và bị đốt cháy tàn phá “không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào”.
Cũng vậy, trong ngày tận thế khi Chúa Ki-tô tái lâm sẽ phán xét chung toàn nhân loại. Khi ấy mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của mỗi người đều bị phơi bày trước nhan Chúa.
Điều cần là mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức cầu nguyện và làm lợi các tài năng Chúa ban, để được Chúa khen ngợi ban thưởng Nước Trời đời đời như sau : “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt 25,21).
- SUY NIỆM:
1) TỈNH THỨC BẰNG LỐI SỐNG ĐƠN SƠ NHỎ BÉ NHƯ THÁNH NỮ TÊ-RÊ-SA:
– Tuy không làm được những việc lớn lao, nhưng Tê-rê-sa đã sống tinh thần “con thơ phó thác”, yêu mến cậy trông vào Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su. Thế mà ngày nay chị đã được Hội Thánh tôn lên hàng đại thánh và được hằng triệu con tim ngưỡng mộ học tập.
– Tuy không đi giảng Tin Mừng và không rửa tội được cho ai, nhưng nhờ lời cầu nguyện kèm theo sự hy sinh hãm mình cho việc truyền giáo, mà chị thánh đã được đánh giá như một vị thánh đi truyền giáo hữu hiệu, ngang hàng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê.
– Tuy không để lại những tác phẩm lớn lao uyên bác như thánh Tô-ma A-qui-nô, nhưng Tê-rê-sa vẫn được tôn lên hàng tiến sĩ, là thầy dạy của Hội Thánh về đức tin.
Như vậy, không nhất thiết phải giàu sang, có địa vị cao và tài năng vượt trội, chúng ta mới có thể làm được những việc lớn lao. Vì đối với Thiên Chúa, ai càng nhỏ bé khiêm hạ sẽ được Ngài tôn lên.
2) TỈNH THỨC BẰNG VIỆC QUÊN MÌNH PHỤNG SỰ CHÚA VÀ THA NHÂN:
– Trong cuộc sống, bạn có biết mỉm cười để cảm thông với tha nhân không ? bạn có sẵn sàng làm những việc trong tầm tay của mình như: dọn một tách cà phê vào buổi sáng cho bố, đi chợ nấu cơm dọn dẹp nhà cửa giúp cho mẹ, động viên các em học bài ở nhà, giúp bạn bè vượt khó với hết khả năng của mình… Mỗi buổi tối chúng ta hãy tự hỏi mình: “Trong ngày hôm nay tôi đã sử dụng nén bạc Chúa trao thế nào ?”
– Ngày nay có nhiều người cho rằng Thiên Chúa bất công khi để xảy ra tình trạng: người thì “bát ăn bát để”, đang khi nhiều kẻ khác lại phải bị “khố rách áo ôm”. Người thì cao sang quyền quý “lên xe xuống ngựa”, đang khi nhiều kẻ phải “làm thân trâu ngựa” cho người ta cưỡi. Có những cô gái vừa “đẹp người” lại vừa “đẹp nết” nên được nhiều kẻ đón người đưa, đang khi nhiều cô khác lại “sinh ra nhằm ngôi sao xấu” nên chẳng ai thèm đoái hoài… Đức Giê-su đã gián tiếp trả lời cho vấn nạn trên qua dụ ngôn “những nén bạc” trong Tin Mừng hôm nay. Điều quan trọng là hãy bằng lòng với những gì mình đang có và biết dùng những tài năng đó để làm lợi cho Chúa.
– Trộm cướp giết người là trọng tội đáng bị trừng phạt đời sau, nhưng tội không sử dụng tài năng của cải Chúa ban để làm sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi các linh hồn cũng là một trọng tội bị loại khỏi hạnh phúc Nước Trời.
– Hôm nay tôi sẽ sử dụng những của cải và tài năng Chúa ban thế nào để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân?
- THẢO LUẬN:
Một số khá đông tín hữu nghĩ rằng: “Tôi rất bận với công việc bổn phận lo kiếm tiền nuôi gia đình, nên không có giờ cầu nguyện, dự lễ hằng ngày hoặc làm các việc bác ái truyền giáo như các linh mục tu sĩ được”. Bạn có đồng ý với câu nói chữa mình nói trên không ? Tại sao ?
- NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xưa khi Mẹ Ma-ri-a khi được khen là “có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói” (x Lc 1,45), thì Mẹ đã dâng lời ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa. Rồi từ đó, cuộc đời của Mẹ trở thành một bài ca “Xin vâng” thánh ý Thiên Chúa (x. Lc 1,38), và luôn “ngợi khen cảm tạ tình thương của Người”.(x Lc 1,46.49). Cuộc đời chúng con ở trần gian hôm nay vẫn còn nhiều gian truân đau khổ. Xin Chúa giúp chúng con cũng biết “xin vâng” ý Chúa như Mẹ Ma-ri-a xưa. Xin cho chúng con biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để “làm vinh danh cho Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Xin cho chúng con biết ra tay làm việc hơn là chỉ biết ngồi đó mà kêu trách số phận như người ta thường nói: “Thà thắp lên một ngọn đèn, còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối !”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo”.
Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn một trăm ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong dòng thời gian bị bách hại, các Kitô hữu phải trải qua một trong những thử thách đức tin là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các Kitô hữu bước qua. Đôi khi chỉ là hai cây gỗ bắt chéo nhau. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình dã man. Ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.Bước qua là được tiếp tục sống an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất cả mạng sống. Chỉ cần một bước chân thôi là mọi sự thay đổi. Đã có người bước qua, và cũng có người không.
Có người bị khiêng qua thánh giá nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận, đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế; các ngài vẫn khẳng khái nói không, không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Đứng trước thập giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.Giây phút đứng trước thập giá là giây phút quan trọng.Quyết định không bước qua thập giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất…Các Thánh Tử Đạo có chung một chọn lựa dứt khoát : theo Đức Kitô hay theo vua quan? Theo Đức Kitô là vác thập giá, sống trong gông cùm và chết trong đau thương. Theo vua quan là thừa hưởng vinh hoa phú quý nơi trần gian. Các Ngài có chung một quyết định tối hậu là theo Đức Kitô. Giây phút quyết định ấy chỉ có các Ngài với Thiên Chúa, chỉ có linh hồn với cõi phúc vô biên. Giây phút ấy không bị ảnh hưởng bởi gia đình, tổ quốc, nhân sinh. Người chết trong máu tử đạo đã coi nhẹ nghĩa phu thê, đã xem thường đường phụ tử. Họ khao khát một tình yêu vô biên mỹ lệ như giải ngân hà sao sa vời vợi, như vầng nhật nguyệt huy hoàng khôn tả. Các Ngài đã hoan hỉ chấp nhận chết để được sống một cuộc đời mà không mỹ từ nào diễn tả nổi, không bút hoạ nào vẽ thành và không hùng biện nào tuyên dương cho trọn. Người chết trong gông cùm mòn mỏi đã đặt tổ quốc đàng sau những giá trị vĩnh cửu. Ước vọng của họ không phải là được người đời tưởng niệm, được hậu thế tôn phong. Họ chết là vì đức tin thúc đẩy. Họ chỉ muốn thực hiện điều đã từng nghe biết : “Ai tuyên xưng danh Ta trước mặt trần gian, Ta sẽ tuyên danh nó trước mặt Cha Ta trên trời” (Mt 10,32). (x.Thiên Hùng Sử trang 4).
Thánh Nữ Inê Lê Thị Thành, sinh tại làng Bái Điền, địa phận Thanh Hóa, vào khoảng năm 1781; nhưng sau này theo mẹ về quê sống tại làng Phúc Nhạc, địa phận Phát Diệm. Năm lên 17 tuổi bà kết duyên cùng ông Nhất và sinh được 2 trai, 4 gái. Vì con trai đầu lòng tên Đê, nên theo tục lệ thời ấy, dân chúng gọi hai người là ông bà Đê. Suốt 60 năm trời, cuộc đời của bà êm đềm trôi qua trong nghĩa vụ làm người vợ thảo, mẹ hiền.
Thế rồi, vào lối tháng 3 năm 1841, có 4 linh mục thừa sai về đến làng Phúc Nhạc. Họ chia nhau ẩn trú mỗi người tại một nhà giáo dân. Bà Đê được vinh dự che dấu cha Thành trong nhà mình. Nhưng một ngày kia, ông Đễ, một giáo dân thường hay theo giúp cha Thành, đã thay lòng đổi dạ, ham tiền thưởng nên đi mật báo với quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Thế là quan tổng đốc bất thần đem 500 quân về vây làng Phúc Nhạc vào rạng sáng Phục Sinh, 14-4-1841. Cha Thành và cha Ngân nhanh chân trốn kịp. Cha Nhân trốn trên gác bếp vô tình để gấu áo lò ra ngoài kẽ ván nên bị bắt. Cha Lý, đang ẩn bên nhà ông trùm Cơ, lúng túng không tìm được đường tẩu thoát, nên chạy sang nhà bà Đê ẩn núp. Bà dẫn cha ra vườn sau, dấu cha dưới đường mương, rồi mẹ con bà lấy rơm rác phủ dấu che cha. Nhưng quan quân đã thấy cha Lý chạy sang nhà bà Đê, nên kéo đến vây kín, lục soát thật kỹ, cuối cùng họ đã bắt được cha Lý, bắt luôn bà Đê áp giải về Nam Định. Với tuổi cao sức yếu, lại phải mang gông cùm nặng nề, đoạn đường từ Phúc Nhạc về đến Nam Định đã trở thành chặng đàng thánh giá, con đường dẫn đến Núi Sọ.
Tại Nam Định, bà đã bị lôi ra tòa, bị đánh đập nhiều lần nơi công đường, khi thì bằng roi, khi thì bằng cây củi lớn, nhưng bà vẫn một mực trung kiên tuyên xưng đức tin.
Lính vừa đánh vừa lôi bà dẫm lên thánh giá. Bà vùng ra rồi nằm sụp xuống ôm lấy thánh giá. Bà cầu nguyện: Chúa con ơi, xin thương con, con không bao giờ bỏ Chúa đâu. Họ cậy con là đàn bà yếu đuối mà ép lôi con dẫm lên thánh giá. Con không bỏ Chúa đâu, con không bỏ Chúa đâu. Xin thương giúp con.
Quan: Con mụ già này to gan thật. Được, để ta xem ngươi to gan đến đâu. Quân bây đâu.Đem rắn độc ra cho ta.Túm áo túm quần nó lại. Thả rắn độc vào mình nó, để xem nó to gan đến đâu, xem Chúa nó có cứu nó được không? Lính thi hành. Nhưng bà vẫn bình tĩnh đứng yên. Quan đi từ khoái chí đến kinh ngạc, rồi giận dữ.
Quan: Lôi nó vào ngục, đánh cho nó thêm một trận nhừ đòn. Đánh cho toát máu, cho áo quần nó phải đẫm máu mới thôi.
Cô Nụ, con bà Đê đến xin thăm nuôi mẹ. Một người lính lôi bà Đê ra. Vừa thấy mẹ, cô Lucia Nụ òa lên khóc vì thấy mẹ quá tiều tụy, áo quần rách nát, đẫm máu. Nhưng bà vẫn vui vẻ an ủi con.
Cô Nụ: Mẹ, sao áo quần mẹ tả tơi, đẩm máu thế này.
Mẹ: Con ơi, con đừng có khóc. Con hãy vui mừng với mẹ, vì mẹ đang mặc áo hoa hồng đây. Áo này là áo đau khổ vì Chúa mà. Con phải vui mừng với mẹ mới đúng.
Cô Nụ: Mẹ, sao mẹ khổ thế này!
Mẹ: Con ơi, con đừng khóc nữa. Mẹ đang sung sướng kia mà. Mẹ sắp được chết cho Chúa đây, còn gì phúc hơn. Con phải mừng với mẹ, cám ơn Chúa với mẹ mới đúng chứ. Con hãy về đi, về đi và cho mẹ gởi lời thăm hỏi mọi người. Các con hãy cố gắng giữ đạo cho sốt sắng, rồi một mai mẹ con ta sẽ lại đoàn tụ trên thiên đàng.
Bên cạnh những cực hình của ngục tù, đòn vọt, bà Đê lại mắc thêm bệnh kiết lỵ. Chính trong cảnh tù đày, đòn vọt, bệnh tật này, bà đã nhìn lên Đức Giêsu tử nạn, để tìm thấy lẽ sống cho đời mình, để múc lấy sức mạnh vác thánh giá cho đến hơi thở cuối cùng.Và cũng như Đức Giêsu trên thánh giá, bà đã cầu nguyện cùng Chúa trong cơn hấp hối: Lạy Chúa… xưa Chúa đã chết cho con… thì nay con xin hết lòng vâng theo Ý Chúa. ..Xin Chúa tha thứ cho họ… cũng như tha hết. .. mọi tội của con. Rồi bà gục đầu tắt thở trong tay cô Nụ.
Cô Nụ: Mẹ, và ôm xác mẹ khóc nức nở.
Bà Đê đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 12-7-1841, sau ba tháng bị giam cầm, thọ 60 tuổi. Lính đã đến đốt ngón chân bà để biết chắc bà đã chết. Sau đó thi hài bà được đem chôn tại Năm Mẫu, sau lại được cải táng đưa về Phúc Nhạc. Vị thánh nữ đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam.(x.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Trong Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo, Linh mục Vinh sơn Bùi Đức Sinh, trang 216-220).
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.
Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác.Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn. Ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống. Ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời. Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa, bởi lẽ “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Đây là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh Giá, Thánh Thể không có ý nghĩa. Không có Thánh Thể, Thánh Giá chỉ là thất bại.Từ Thánh Giá đến Thánh Thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh Giá đến tình yêu Thánh Thể.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhờ sức mạnh của Thánh Thể nên đã chọn Thánh Giá cách tuyệt đối và quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Là con cháu của các ngài, xin cho chúng con luôn khôn ngoan trong những chọn lựa của đời sống hàng ngày. Amen.
LÒNG MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI NƠI CÁC THÁNH TĐVN
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nét son của đạo Công giáo là yêu thương. Ai không sống yêu thương thì người đó không còn xứng đáng gọi là môn đệ của Chúa. Vì xưa Chúa Giê-su đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Yêu thương làm nên người Công Giáo. Yêu thương là hoàn thiện mình nên giống Thầy Chí Thánh Giê-su.
Các thánh Tử đạo Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tất cả các ngài đều có một đời sống gắn bó với quê hương, với xóm làng và đầy tình yêu thương với mọi người từ gia đình đến xã hội. Cụ thể là thánh Simon Phan Đắc Hoà, giáo dân tử đạo. “Là một lương dân, cậu Phan Đắc Hoà đã bị cuốn hút bởi đời sống bác ái yêu thương của một số kitô hữu mà cậu gặp gỡ. Cậu đã xin phép mẹ để được học đạo. Trở thành kitô hữu, lập gia đình, có 12 người con, ông Simon Phan Đắc Hoà luôn sống gương mẫu cho mọi gia đình trong làng. Làm nghề y, ông không bỏ qua một cơ hội giúp người nghèo khó bệnh tật”
Với ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: “Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình “. Với quan Hồ Đình Hy thì: “Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý “. Ông từng chăm sóc nuôi nấng một người bệnh bơ vơ, suốt 15 ngày sáng tối thăm hỏi, và khi người bệnh lìa đời, đã tổ chức lễ an táng tử tế. Ông cũng nuôi hai bé gái bị bỏ rơi cho đến khi trưởng thành: một cô xin đi tu, một xin lập gia đình, ông quảng đại lo đến nơi đến chốn.
Chính đời sống đức tin tỏa sáng nhờ có dầu bác ái mà các ngài đã nêu gương sáng cho mọi người, các ngài đã đi vào lòng quan quân, và dân chúng một sự ngưỡng mộ và kính trọng. Mặc cho triều đình nhà Nguyễn ra những chiếu chỉ bách hại, dấu hiệu tình thân giữa bà con chòm xóm đối với người Công Giáo vẫn trước sau như một. Thí dụ trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ “.
Và ngày hôm nay trong cứu trợ lũ lụt đồng bào Miền Trung người ta thấy các xứ đạo trong tỉnh Đồng Nai dường như rất nhiệt tình chia sẻ với anh chị em Miền Trung. Nhiều xứ trở thành nơi gói bánh chưng, tập kết quần ào, gạo, mì tôm và nhiều nhu yếu phẩm khác. . . để gửi ra Miền Trung. Đây là những nghĩa cử cao đẹp mà chúng ta đã và đang làm theo gương cha ông chúng ta. Đó cũng là những hành động làm chứng cho tin mừng, là chia cơm sẻ áo, là chia sẻ tiền bạc, vật dụng để những người gặp cảnh hoạn nạn… có thêm cơ hội để sống và sống đúng với nhân phẩm của mình.
Nếu hiểu tử đạo là lời chứng cho tin mừng thì người Công giáo chúng ta hôm nay đang làm chứng về tình yêu thương khi biết cho đi mà không mong đền đáp. Nhưng vượt lên trên tình yêu của đồng loại với nhau, thì tử đạo là đặt Chúa lên trên hết cho mọi chọn lựa. Dầu có bị thiệt thòi, bắt bớ, tra tấn hay tù đầy thì vẫn phải làm chứng cho sự thật, công lý và tình thương.Như thánh Simon Phan Đắc Hoà dầu bị tra tấn dã man vẫn không hề nản chí. Dù nhìn thấy viễn cảnh: đầu rơi, xa lìa những người thân yêu nhất trong gia đình, ông vẫn nhất quyết theo gương Thầy Chí Thánh, sống vì mọi người và một lòng theo thánh ý Thiên Chúa cho tới hơi thở cuối cùng. Ông từng nói:
“Những trận đòn không làm ông nản chí, trái lại ông còn lấy thế làm hạnh phúc, vì được hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh”
Ngày nay, chúng ta phải sống trong môi trường xã hội đảo điên, tiền bạc chi phối mọi sinh hoạt đời sống xã hội. Cônglý bị bẻ cong. Người dám nói sự thật bị cô lập. Người lên tiếng cho công lý bị tù đầy.
Điều đáng buồn là nhiều người hôm nay đã chọn gỉai pháp im lặng để an toàn cho bản thân và có đôi khi là cơ hội để thăng tiến. Đây là cách sống phản lại tin mừng của Chúa. Vì tin mừng là muối, là men để thay đổi xã hội nên tốt hơn chứ không phải để cất dấu sẽ làm hư men tin mừng.
Mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam xin cho chúng ta là con cháu biết kế thừa tinh thần đầy yêu thương và can trường của cha ông để sống và làm chứng cho xã hội hôm nay. Xin đừng vì ích kỷ, lợi lộc bản thân mà im lặng truớc bất công và cái xấu, những giữa cuộc chiến thiện và ác, chúng ta phải can trường để đưa tin mừng xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn khi công lý và tình thương được lan rộng khắp mọi nơi. Amen
HIẾN DÂNG ĐỂ SỐNG TINH THẦN TỬ ĐẠO
Lm Nguyễn Minh Hùng
Ngày lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam là ngày Hội của Đức tin người Công giáo Việt Nam. Bởi từ khởi đầu truyền giáo đến nay, chưa từng có một khoảnh khắc bình an đúng nghĩa để giữ đạo và sống đạo, người Công giáo Việt Nam vẫn bất khuất trước mọi đầu sóng ngọn gió để đạt một gia sản đức tin quá đỗi lớn lao cho đến hôm nay, chắc chắn sẽ còn mãi về sau.
Người Công giáo Việt Nam vui mừng, hãnh diện vì đức tin của mình. Ngày Hội của Đức tin hàng năm là ngày người Công giáo Việt Nam vừa ôn lại quá khứ để học đòi bắt chước tấm gương kiên trung của cha ông, vừa là ngày mà họ trang trọng khẳng định với mọi người, nhất là với những ai thù ghét, luôn muốn đặt đức tin Công giáo trở thành mục tiêu tiêu diệt, rằng: Sức mạnh của đức tin là sức mạnh chiến thắng trên mọi chiến thắng!
Ngày Hội của Đức tin nhắc nhở từng người con của Hội Thánh Việt Nam, hậu duệ của các thánh Tử Đạo, phải ý thức đức tin của mình, phải lấy tấm gương quyết một lòng sống và chết cho đức tin của các ngài mà soi rọi, mà học tập, mà rút tỉa kinh nghiệm… cho chính đời sống Kitô hữu của mình.
Qua chính tấm gương của các thánh Tử Đạo Việt Nam, ta thấy Đức tin luôn luôn có những đòi hỏi. Đòi hỏi rõ ràng nhất là đòi hỏi HIẾN DÂNG.
Thư gởi tín hữu Do Thái đã từng ca ngợi Chúa Kitô: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu độ vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9, 12).
Hoặc nơi khác, thư gởi tín hữu Do Thái viết tiếp: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 5-7).
Nếu Chúa Kitô, người Thầy, đã tận hiến chính mình, đến lược mọi tín hữu, một khi đã tin Chúa Kitô, đi theo Người, cũng được mời gọi hiến dâng mình trong từng ngày sống để thánh hóa mình, để thu ngắn cánh đồng truyền giáo, để tôn vinh danh Chúa, mưu cầu hạnh phúc đời đời cho con người, để Hội Thánh tiếp tục trường tồn và phát triển.
Trong đời sống, hiến dâng mình là đón nhận Thánh Ý, vui sống với Thánh Ý qua từng ngày sống, từng biến cố, từng hoàn cảnh đời mình.
Hiến dâng mình còn là nỗ lực băng mình phục vụ Chúa, phụng sự Nước Trời bằng tất cả khả năng, tất cả mọi công tác, tất cả mọi hy sinh, tất cả mọi đóng góp mà việc mở mang Nước Chúa cần đến chúng ta.
Hiến dâng mình là ta tự thánh hóa từng giây phút sống, thánh hóa ngay giây phút hiện tại mà Chúa ban, để mỗi giờ khắc trôi qua trong đời ta đều là giờ khắc thánh, đưa ta đến gần Chúa, đến gần ơn cứu độ của Người.
Hiến dâng mình là can đảm nghe thấu tiếng kêu của người đau khổ, kẻ góa bụa, nạn nhân của bóc lột, của bất công, của sự lủng đoạn công lý…
Ta không tự bịt mắt trước hoàn cảnh của người cô thân, người bị bỏ rơi, người thiếu thốn, người cơ hàn… đang cần sự trợ giúp vì thiếu thốn cả tình yêu, tinh thần, lẫn vật chất.
Chúa Kitô đã từng chỉ cho ta cách hiến dâng mình để tự thánh hóa:“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Mt 16,24).
Thập giá ấy chính là trách nhiệm, là nỗ lực, là trung thành đến cùng qua tất cả mọi lao tác, mọi phận vụ, mọi chiều kích, dẫu có phải vượt qua chông gai, vượt qua đau đớn.
Vác thập giá chính là hiến dâng mình trong đức tin, để biến thời gian sống của ta thành thời gian thánh và biến đời ta thành đời hy tế ích lợi cho anh chị em.
Ta sống là sống với Chúa, sống với anh chị em.Vì thế, trong đức tin, ta hiến dâng là hiến dâng cho Chúa và cho anh chị em.
Như Chúa Kitô hiến tế cho trần thế, các thánh Tử Đạo Việt Nam noi gương Chúa Kitô hiến dâng chính mình. Các ngài hiến dâng cái quý giá nhất trong cuộc đời này, đó là mạng sống, là sự sống của bản thân.
Các thánh Tử Đạo trở thành tấm gương và bài học sống động để chúng ta, hậu duệ của các ngài, thời này sang thờii khác noi gương bắt chước.
Ngày lễ trọng đại kính mừng các thánh Tử Đạo Việt Nam là ngày hạnh phúc, ngày hãnh diện, ngày vui mừng, ngày Hội lớn nhắc nhở chúng ta về một truyền thống đức tin không biết sợ hãi hay khuất phục, không bao giờ cúi đầu, nhưng luôn luôn bình tĩnh đón nhận dẫu phải trải qua những bàn tay dã man nhất, luôn luôn ung dung tự tại dẫu phải đối diện với trăm ngàn đe dọa hiểm độc nhất, luôn luôn ngẩng cao đầu đến nỗi những kẻ sắt máu nhất sẵn sàng lao vào giết hại mình bất cứ lúc nào cũng phải bạt nhược, khiếp đảm.
Ngày Hội Đức tin nằm trong bối cảnh năm Đức tin, lại càng là dịp giúp mọi con cái các thánh Tử Đạo, là tất cả các Kitô hữu Việt Nam, ra sức nêu cao tinh thần đức tin quật cường của Cha Ông!
Chúng ta phải đi trên con đường của Cha Ông, để không bao giờ hỗ thẹn với tinh thần đức tin của các ngài.
Chúng ta không được phép lỗi hẹn với Tiền Nhân.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VN
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Vào ngày lễ mừng kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa ca ngợi cuộc sống chứng tá của những người công chính bị bách hại và những ân phúc mà họ được hưởng trước thánh nhan Thiên Chúa.
Kn 3: 1-9
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Các thánh tử đạo là những người công chính đã được Thiên Chúa tôi luyện như vàng trong lò lửa và “thấy họ xứng đáng với Ngài”. Họ là những người làm chứng cho lòng tin ở Chúa. Lòng tin ấy sẽ “rực sáng như tia lửa bén nhanh giữa rừng sậy” như cách diễn tả của Chúa Giê-su: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12: 49).
1Cr 1: 17-25
Giáo Hội Việt Nam hôm nay hân hoan mừng Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Trong hàng ngũ các ngài, ngoài các vị là giám mục, linh mục, đa số là giáo dân. Các ngài không phải là những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng các ngài là những chứng nhân cho “Đức Ki-tô bị đóng đinh vào Thập Giá”. Vì thế, Thiên Chúa đã chọn các ngài, những người mà thế gian coi như điên rồ, được hưởng phúc trên Nước Trời.
Mt 10: 17-25
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã lần lượt bị điệu đến quan quyền để làm chứng cho đức tin. Thánh I-nê-đê, một phụ nữ quê mùa. Thánh Tô-ma Thiện, chủng sinh mới 16 tuổi. Nhưng ơn Chúa đã giúp các ngài đối diện với vua quan, đã dạy các ngài phải nói gì, và cuối cùng các ngài đã bền vững trong lòng tin vào Chúa, nên gương sáng cho cháu con hôm nay. Quả thật, như lời của thánh Âu-gút-ti-nô: “Trên mảnh đất đã gieo nhiều hạt giống đẫm máu, mảnh đất đó càng phát sinh nhiều vị tử đạo, và rồi hạt giống đó sẽ kết thành mùa lúa vàng của Giáo Hội. Các thánh tử đạo chết đi càng là chứng nhân cho Chúa Kitô hơn là lúc còn bình sinh. Ngày nay các ngài vẫn còn đang nói, vẫn còn đang giảng thuyết. Miệng lưỡi tuy im bặt, nhưng bao nhiêu sự việc còn vang dội sâu xa” (Trích từ tập san “Công Giáo và Dân Tộc”, Năm Phụng Vụ 93).
BÀI ĐỌC I (Kn 3: 1-9)
Những khẳng định của sách Khôn Ngoan là một khúc quanh quan trọng, kết thúc thời gian dài các nhà tư tưởng Do thái do dự về số phận của những người công chính ở bên kia nấm mồ.
Trước đó, vấn đề thưởng phạt thường được nêu lên suốt nhiều thế kỷ mà không có giải pháp thỏa đáng nào. Trong lịch sử dài này, tư tưởng chiếm ưu thế đó là “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặp bảo” ngay trong cuộc đời tại thế. Những người công chính vui hưởng những hoa quả công đức của mình như phúc, lộc, thọ, trong khi bọn ác nhân không sớm thì muộn sẽ phải đón nhận những tai ương hoạn nạn: lưới trời lồng lộng, không ai có thể thoát được. Trái lại, niềm tin vào cuộc sống mai hậu thì quá bi quan: tất cả mọi người, công chính hay gian ác, khi từ giả cõi đời này đều cùng chung một số phận, bị giam cầm trong cõi Âm Ty, ở đó không còn gì ngoài bóng tối âm u.
Nhưng kinh nghiệm thường ngày: “những đều trông thấy mà đau đớn lòng”, cực lực phản bác viễn cảnh thưởng phạt ngay từ cuộc đời trần thế này. Sách Gióp (khoảng thế kỷ thứ 6-5 tCn) xao xuyến nêu lên vấn đề họa vô đơn chí giáng xuống trên người công chính. Thật ra, các ngôn sứ đã tuyên xưng rằng số phận của người công chính khác với kẻ gian ác ở bên kia nấm mồ. Các Thánh Vịnh công bố rằng người công chính sẽ được hưởng phúc vinh hiển trước Thánh Nhan Chúa muôn đời (Tv 16; 17; 49; 73). Tiếp đó, niềm tin vào sự sống lại của những vong nhân vào ngày phán xét bắt đầu lộ diện. Vào thời An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê bách hại dân Do thái thật khủng khiếp, những người tử vì đạo tuyên xưng niềm tin của mình vào một cuộc sống bên kia cái chết (2Mcb 7: 1-38).
Tác giả sách Khôn Ngoan còn triển khai xa hơn nữa. Ông thấy niềm tin vào sự bất tử linh hồn của người Hy lạp củng cố niềm hy vọng vào sự sống lại mai hậu vẫn còn tiềm ẩn hay rụt rè của người Do thái. Nhưng ông cũng nhận ra rằng tư tường Hy lạp này không hoàn toàn tương xứng với tư tưởng Kinh Thánh. Quả thật, người Hy lạp đề cao linh hồn đến mức xem thường thân xác như một thứ hình hài tạm bợ, đáng khinh bỉ, mãi mãi sẽ bị vứt bỏ sau khi chết.
- Quan niệm sai lầm về con người
Trước hết, tác giả bài bác quan niệm duy vật về con người: sinh ra là một sự ngẫu nhiên, sống chỉ là cho qua ngày đoạn tháng; khi hơi thở biến mất, cuộc sống tan biến như sương khói; tư tưởng như ngọn lửa bên trong vụt tắt, thân xác chỉ còn tro bụi. Theo quan niệm duy vật này, không có chỗ nào dành cho Đấng Tạo Hóa và Quan Phòng của Ngài.
Tác giả viết vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên ở A-lê-xan-ri-a cho đồng bào của mình, họ đang bị nền văn hóa ngoại giáo chung quanh hấp dẫn lôi cuốn. Số lượng người bội giáo (tác giả gọi “quân vô đạo”) đáng lo ngại. Theo tác giả, uy thế của triết học và của các tôn giáo khác, dù hệ thống học thuyết có mê hoặc lòng người đến đâu đi nữa, cũng không thể nào biết được sự hiện hữu của một Thiên Chúa hữu vị, Đấng có một kế hoạch riêng biệt cho con người và là một Thiên Chúa tình yêu. Đối lập với quan niệm vô tri và duy vật này, tác giả trình bày quan niệm đích thật về con người mà Thiên Chúa đã mặc khải.
- Quan niệm đích thật về con người (3: 1-6)
Ở trung tâm lập luận của mình, tác giả sách Khôn Ngoan trình bày điều cốt yếu nhất liên quan đến con người được Thiên Chúa sáng tạo nên “trường tồn bất diệt” dựa trên sách Sáng Thế (1: 27):
“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người
cho họ được trường tồn bất diệt.
Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (2: 23).
Từ đó, tác giả sách Khôn Ngoan khai triển những viễn cảnh vinh quang đang chờ đợi những người đức hạnh vẹn toàn, sống một đời thánh thiện:
“Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa;
và chẳng cự hình nào động tới được nữa.
Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi;
khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc.
Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt,
nhưng thực ra họ đang hưởng an bình.
Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt,
nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử” (3: 1-4).
Tất cả những khai triển này mang đậm nét Kinh Thánh, đặc biệt được gợi hứng từ các chương đầu tiên của sách Sáng Thế, không liên hệ gì đến triết thuyết nhị nguyên của Hy-lạp. Lập luận chủ yếu của tác giả căn cứ trên Mặc Khải. “Linh hồn” mà tác giả nói đến ở đây không là linh hồn bất diệt trong thân xác hư hoại, nhưng là “sinh khí của Thiên Chúa” (St 2: 7).
Từ nay, vấn đề về sự chết và đau khổ được soi sáng. Cái chết không còn là án phạt nữa nhưng là ngưỡng cửa bước vào cõi trường sinh bất tử. Đau khổ là một sự thử thách nhằm tôi luyện các tôi trung của Thiên Chúa để cuộc đời của họ trở thành “của lễ toàn thiêu”:
“Sau khi chịu sửa dạy đôi chút,
họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao.
Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ
và thấy họ xứng đáng với Người
Người đã tinh luyện họ
như người ta luyện vàng trong lò lửa
và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu” (3: 5-6).
- Vinh quang chung cuộc (3: 7-8)
Ở đây, tác giả mô tả vinh quang mà người công chính được hưởng vào ngày cánh chung:
“Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm,
họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (3: 7)
“Thiên Chúa viếng thăm” là diễn ngữ Kinh Thánh, tức là một sự can thiệp chứa chan ân tình của Thiên Chúa như lời di chúc của tổ phụ Giu-se cho các anh em mình: “Thế nào Thiên Chúa cũng viếng thăm anh em” (St 50: 24), nghĩa là Ngài sẽ ban cho anh em muôn vàn ân phúc của Ngài.
Tác giả sách Khôn Ngoan nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra vào thời cánh chung, vào lúc đó, những người công chính sẽ rực sáng vinh quang, Thiên Chúa sẽ đặt họ “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, nghĩa là đức hạnh của người công chính sẽ chiến thắng trên sự ác tâm quỷ quyệt của quân vô đạo:
“Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước.
Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời” (3: 8).
Chính trong chiều hướng này mà thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao?” (1Cr 6: 2) và tác giả sách Khải Huyền viết: “Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân” (Kh 2: 26). Đức Giê-su sẽ sử dụng kiểu nói tương tự để xác định vị thế của các môn đệ Ngài trong vương quốc Nước Trời: “Khi Con Người ngự tòa vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai tòa mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Mt 19: 28).
- Thiên Chúa là tình yêu, ân phúc và từ tâm (3: 9)
Niềm hy vọng lớn lao này căn cứ trên tình yêu, ân phúc và từ tâm của Thiên Chúa. Chính vì tình yêu, ân phúc và từ tâm này mà những người công chính sống:
“Những ai trông cậy vào Chúa sẽ am tường sự thật;
những ai trung thành, sẽ được Chúa yêu thương
và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc,
và thương xót những ai được Người tuyển chọn” (3: 9).
Lời kết thúc của Bài Đọc I này được viết cách Tin Mừng đến một thế kỷ, loan báo sứ điệp rất gần với sứ điệp Tin Mừng. Có một sự duy nhất của Mặc Khải Cựu và Tân Ước.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 17-25)
Bài Đọc II, trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô, được cấu trúc rất chặt chẽ. Tuy nhiên, cần phải đặt nó vào trong văn mạch để hiểu rõ hơn tư tưởng của thánh nhân. Xin nhắc lại cách ngắn gọn: cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô chia rẽ nhau về các vị rao giảng của họ, gây nên các bè phái ở giữa họ. Cực lực chống lại việc chia năm xẻ bảy này, thánh Phao-lô lớn tiếng chỉ trích cách hành xử này không phù hợp với tinh thần Tin Mừng.
- Sự khôn ngoan của thế gian (1: 17-21)
Đáp lại những kẻ tự phụ cho mình là “thông thái”, thánh Phao-lô nhắc nhớ rằng thánh nhân đã rao giảng cho họ không bằng lời lẽ khôn khéo, nhưng sự điên rồ của thập giá trái với những điềm thiêng dấu lạ người Do thái mong đợi và sự khôn ngoan người Hy lạp tìm kiếm.
Người Do thái chờ đợi một Đấng Mê-si-a thực hiện những điềm thiêng dấu lạ, một Đấng Mê-si-a quyền năng và chiến thắng. Người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, tức là một cuộc sống quân bình, mực thước và điều độ, không có nó không một xã hội nào có thể bền vững được; đó là điều mà tất cả hệ thống triết học đề cao. Hai quan niệm, Do thái và Hy lạp, rất khác biệt nhau, nhưng không có quan niệm nào phù hợp với hình ảnh Thập Giá.
Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh Phao-lô đã gặp phải hai chướng ngại này. Biết bao người Do thái đã không thể chấp nhận Đấng Mê-si-a chịu khổ hình trên thập giá. Ở An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, Thê-xa-lô-ni-ca và nơi khác, thánh Phao-lô đã bị những người Do thái này khai trừ và bách hại.
Còn đối với người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thánh Phao-lô đã chạm trán với họ ở A-thê-na. Thánh nhân đã cố thuyết phục họ nhưng vô ích. Họ mong chờ những diễn từ lời hay ý đẹp, trong khi thánh nhân rao giảng một Đấng chịu đóng đinh trên thập giá. Quả thật, bản văn cho thấy rằng việc rao giảng Thập Giá khó thuyết phục con người. Đối với người Hy lạp, ưu phẩm hàng đầu của một vị thần chính là Mỹ, vì thế Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng con người không thể nào được sánh ví với hình ảnh của một thần linh.
- Sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1: 22-25)
Thập Giá không là một diễn từ lời hay ý đẹp, nhưng là một sự kiện, một sự kiện khác thường, ở đó ẩn dấu sự khôn ngoan của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những kỳ vọng của con người.
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô đưa ra một trong những bài học lớn lao đó là: “dạy mầu nhiệm đau khổ như một yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Chung chung, thần học của thánh Phao-lô không bao giờ tách rời biến cố Tử Nạn với mầu nhiệm Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là trường hợp ngoại lệ và có chủ đích. Đối mặt với sự tự mãn của con người, thánh nhân nhấn mạnh một hình ảnh độc nhất: “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”.
TIN MỪNG (Mt 10: 17-25)
Đoạn Tin Mừng hôm nay, trích từ diễn từ về sứ vụ sai đi của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mát-thêu (Mt 10: 5-42), có thể được phân chia như sau: cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-20), cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22), thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại (10: 23) và kết luận (10: 24-25).
- Cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-21)
Khi căn dặn các môn đệ: “Hãy coi chừng người đời”, Đức Giê-su không khuyên họ trốn tránh “người đời”, nhưng trong những cuộc giao tiếp với người đời, họ nên giữ mình khỏi mọi ảo tưởng. Các môn đệ đừng quên rằng Thầy của họ đã bị những người đời này tìm cách khai trừ, loại bỏ. Ở đây, “người đời” này không ai khác là người Do thái: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đường và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ” (10: 17).
Tuy nhiên, câu 18 cho thấy bối cảnh của cuộc bách hại có thể vừa ở trong xứ Pa-lét-tin nhưng cũng vừa ở ngoài xứ Pa-lét-tin. Trong xứ Pa-lét-tin, họ có thể bị bắt và bị điệu ra trước vua chúa (dòng dõi Hê-rô-đê) quan quyền (chính quyền chiếm đóng Rô-ma) hoặc ngoài xứ Pa-lét-tin, trước các giới cầm quyền dân ngoại. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, các Ki-tô hữu đừng quên rằng những cách hành xử đầy bạo lực này có một ý nghĩa, đó là dịp là cơ hội làm chứng cho Đức Ki-tô và Nước Trời. Lời chứng này nêu bật tính chất vừa công khai vừa chính trị. Các vua chúa và dân chúng có dịp nghe nói về Đức Giê-su và Nước Trời.
Câu 19-20 là lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Trong giờ đó, họ không cần phải lo nghĩ phải nói gì, vì Thiên Chúa sẽ ban cho họ Thánh Thần để trợ giúp họ như Thiên Chúa đã hứa với ông Mô-sê: “Chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói gì” (Xh 4: 12). Câu 20: “Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”, mới nhìn thoáng qua, khiến cho nghĩ đến ơn phù trợ này loại bỏ sự dự phần của chứng nhân. Nhưng không phải như thế, trái lại hai cụm từ “chính anh em” và “trong anh em” nhấn mạnh rằng ân huệ này được ban cho các chứng nhân không như những khí cụ thụ động nhưng ở trong họ và bởi chính họ nữa.
- Cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22)
Đối xứng với đoạn văn 10: 17-20 ở trên, đoạn văn 10: 21-22 bao gồm một lời cảnh báo về cuộc bách hại và một lời hứa. Câu 21 cảnh báo rằng ngay cả những người thân thuộc trong gia đình cũng sẽ tố cáo họ vì họ dám chấp nhận cái chết vì tin vào Đức Giê-su. Còn câu 22 đề cập đến việc họ sẽ bị mọi người thù ghét vì Ngài, nhưng hứa rằng những ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ.
- Thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại (10: 23)
Người Ki-tô hữu không phải đưa thân mình ra cho những kẻ bách hại mình, nhưng “khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn chạy sang thành khác”, bởi vì nếu thành này xua đuổi họ thì có thành khác để loan báo Tin Mừng. Như vậy, sứ mạng loan báo Tin Mừng là bổn phận phải chu toàn cho đến cùng. Huấn thị này gợi nhớ cuộc bách hại giáng xuống trên cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem sau cuộc tử đạo của thánh Tê-pha-nô. Sách Công Vụ ghi nhận rằng những người này phải tản mác khắp nơi, đi đến đâu họ loan báo Tin Mừng đến đó (Cv 8: 4).
- Kết luận (10: 24-25)
Các môn đệ của Đức Giê-su không mong đợi một vận mệnh nào khác ngoài vận mệnh của Thầy mình, Đấng bị khinh bỉ, bị ruồng bỏ, bị khai trừ và cuối cùng bị kết án tử trên thập giá. Thầy và trò, chủ và tớ được đặt vào trong cùng một thân phận: “Trò được như Thầy, tớ được như chủ”. Tuy nhiên, diễn ngữ này không giới thiệu một sự so sánh, nhưng căn nguyên khác nhau giữa Thầy và trò. Nếu cả hai đều chia sẻ cùng một vận mệnh: đau khổ, bị bách hại và bị án tử, điều đó không muốn nói rằng Thầy khai mở cho người môn đệ sống lại cuộc mạo hiểm mà chính Thầy đã kinh qua. Cả hai giống nhau trong những diễn biến bên ngoài nhưng lại khác nhau trong ý nghĩa và tầm mức. Đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ của Đấng ở nơi Ngài Nước Trời đã đến (x. 10: 7) trong khi đau khổ của người môn đệ là đau khổ của một chứng nhân về Nước Trời này (x. 10: 18).
Trầm Thiên Thu
Máu Đỏ Lung Linh Sắc Yêu Mến
Da Vàng Lấp Lánh Màu Kính Tin
Như một quy luật bất biến, Kinh Thánh cho biết: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.” (Tv 126:5) Thật đúng như vậy, chỉ là người đời rất ư bình thường mà người ta cũng có thể nhận định: “Có nhục mới có vinh.” Tương tự, muốn thành công thì phải khổ luyện, có đau khổ mới có hạnh phúc đích thực.
Theo bản tính con người, ai cũng sợ chết, dù chỉ chết một lần, bởi vì chỉ có một cuộc đời để sống, không thể rút… kinh nghiệm. Thế nên phải cố gắng sống sao cho có ý nghĩa để cái chết hợp lý. Chắc chắn các thánh tử đạo Việt Nam nhận thức được vậy nên không sợ chết, đặc biệt là chết vì tin vào Đức Giêsu Kitô. Đó là một mối phúc: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:10)
Như để tái xác định, Chúa Giêsu giải thích thêm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.” (Mt 5:11-12)
Thật lạ lùng với cách nhận xét của De Giradin: “Tình yêu chỉ sống được nhờ đau khổ. Sống trong hạnh phúc, tình yêu sẽ chết dần mòn.” Chính đau khổ và hy sinh là bằng chứng về tình yêu chân thật. Tình yêu vô hình, không thể nhìn thấy nhưng có thể cảm nhận. Bussy Rebutin nói: “Tình yêu trong xa cách ví như ngọn lửa trong gió, gió thổi tắt ngọn lửa nhỏ và thổi bùng ngọn lửa lớn.” Đó là nói về tình yêu đôi lứa, nhưng vẫn có ý nghĩa đối với các dạng tình yêu khác, kể cả tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa. Tính chất của lửa rất lạ, càng được chia sẻ càng lan tỏa, càng tăng thêm, chứ không bị giảm bớt hoặc mòn dần.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã.” Máu duy trì sự sống bằng cách không ngừng từ Trái Tim – Trung Tâm Phân Phối Sự Sống – chuyển giao đi khắp cơ thể. Người ta khác nhau về loại máu, nhưng chung quy vẫn là sống và yêu. Tim còn đập là còn sự sống, còn sống thì còn yêu.
Theo y học, có khoảng 46 nhóm máu khác nhau, nhưng nhóm máu chủ yếu là O, A, B, AB và yếu tố Rhesus (Rh, có Rh+ và Rh-). Trong đó, máu O có thể cho bất cứ loại máu nào nhưng chỉ nhận cùng loại máu; còn máu AB có thể tiếp nhận mọi loại máu. Tuy nhiên, máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại các nhóm khác. Một nhóm máu hoàn chỉnh có thể bao gồm một bộ 30 chất trên bề mặt của các RBC (red blood cell – hồng cầu), và nhóm máu của cá thể là một trong những cách kết hợp của một số kháng nguyên nhóm máu. Trong số 30 nhóm máu, có hơn 600 chất kháng nguyên (phân tử kích thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể, sản sinh kháng thể) đã được phát hiện, nhưng đa số rất hiếm hoặc chủ yếu được tìm thấy trong các nhóm bộ tộc nhất định.
Đối với Kitô giáo, Công giáo nói riêng, Thập Giá là biểu tượng của đức tin, vì thế mà những người bách hại dùng Thập Giá – dù chỉ là hai thanh gỗ xếp thành hình thập giá – để bắt người ta bước qua, nhưng chỉ luống công vô ích, vì các tín nhân chân chính luôn tuyệt đối tin vào Đức Giêsu Kitô. Điều đó đã được chứng minh bằng hàng trăm ngàn cái chết của các vị tử đạo Việt Nam trong thời bách hại của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Đó là ứng nghiệm lời cảnh báo của Chúa Giêsu: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” (Mt 10:17-18) Lời tiên báo đó đã và đang xảy ra khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam xưa và nay, càng ngày càng có xu hướng gia tăng. Thật đáng sợ với mưu mô thâm độc của ma quỷ, nhưng đừng hốt hoảng, vì Chúa Giêsu đã nói: “Khi người ta nộp anh em thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” (Mt 10:19-20) Cứ an tâm mà sống!
Bách hại đủ kiểu, đủ mức, tín nhân cũng chẳng yên thân với chính người thân ngay trong gia đình mình: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10:21-22) Không hẳn là những người trong gia đình hoặc trong dòng họ sẽ nộp nhau hoặc ra mặt chống đối, nhưng có thể “bằng mặt mà không bằng lòng,” họ bách hại nhau bằng nhiều cách tinh vi: Lườm nguýt, xa lánh, ghen ghét, mỉa mai, gièm pha, khích bác,… Đơn giản chỉ là không thúc giục nhau sống đạo.
Âm nhạc có những cung bậc khác nhau nhưng chung giai kết trọn, cuộc đời của chúng ta cũng tương tự, cần noi gương các thánh tử đạo Việt Nam, cùng hòa âm bản Hùng Ca Tin Yêu qua cách sống hằng ngày. Chúng ta không viết bản nhạc cuộc đời mình bằng máu tử đạo, nhưng có thể viết bằng cách khác: Sống âm thầm chịu đựng đau khổ vì Chúa cũng là một cách tử đạo liên lỉ, có ích lợi cho chính mình và các linh hồn. Cách nào cũng có mức độ khó riêng, chẳng cách nào dễ. Quan trọng là chúng ta phải hoàn tất bản tổng phổ đời mình.
Bửu Huyết Đức Kitô đã đổ ra vì thương xót và cứu độ nhân loại. Nhờ đó, nhiều người không tham sanh úy tử, dám liều chết vì Chúa. Đó là những nhân chứng đức tin, là các vị tử đạo. Chính máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống sinh các tín hữu. Cũng là những người có cuộc sống bình thường như chúng ta, nhưng các vị tử đạo đã có cách sống khác thường. Thời đó, Việt Nam mới lãnh nhận đức tin Kitô giáo chưa được bao lâu, nhưng đức tin đã bén rễ mau chóng và sâu sắc.
Cụ thể là chàng trai trẻ Anrê Phú Yên (1625-1644) mới rửa tội được 4 năm, vậy mà đức tin ấy đã sớm trưởng thành nên không ngại thí mạng vì Đức Kitô khi mới 19 tuổi đời. Bà Anê Lê Thị Thành (1781-1841), thường gọi bà Đê, là một bà mẹ Công giáo bình thường, nhưng lại có một đời sống đức tin khác thường, để rồi dám chết vì Đức Kitô. Biết tin vua Thiệu Trị ra lệnh xử trảm, thương gia Matthêu Lê Văn Gẫm (1813-1847) vẫn thản nhiên nói: “Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm.” Thật tuyệt vời biết bao!
Đối với xã hội loài người, họ là những người dại dột, thậm chí là ngu xuẩn, nhưng đối với Thiên Chúa thì họ là những người khôn ngoan. Chúa Giêsu đã giải thích: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.” (Mt 10:28) Thật vậy, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa.” (Kn 3:1) Đau khổ chẳng là gì đối với những người hết lòng yêu mến Chúa, vì họ xác tín với lòi Chúa Giêsu: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Lc 9:24)
Các vị tử đạo Việt Nam đã chứng minh lòng tin yêu theo lời Thầy Chí Thánh: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.” (Lc 9:26) Rất rõ ràng. Rất mạch lạc.
Tại Việt Nam, người Công giáo đã từng bị bách hại đủ kiểu, vì thế người Bắc và Trung đã tìm cách di cư vào Nam để có thể tự do tôn thờ Thiên Chúa, nhiều nhất là hồi tháng 07-1954. Mỗi thời có kiểu bách hại riêng, càng ngày càng tinh vi hơn. Thời Cựu ước, sách Ma-ca-bê 2 kể rằng có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Môsê cấm. Bà mẹ là người rất mực xứng đáng khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Hẳn là rất hiếm có bà mẹ nào như vậy. Bà thực sự can đảm, đúng là bà yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Chắc chắn “không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)
Các Việt nhân chân chính sống trung thành, luôn đặt trọn niềm vui và hy vọng vào Chúa, hoàn toàn tín thác nơi Ngài. Họ THEO ĐẠO, cương quyết GIỮ ĐẠO, can đảm SỐNG ĐẠO, và chứng tỏ niềm tin bằng cái chết. Đúng là “vô tri bất mộ.” Không biết thì không yêu mến, nhưng càng biết thì càng thích, càng thích thì càng yêu, càng yêu thì càng mê, mê tới… chết.
Đạo và đời có liên quan lẫn nhau: Người có đạo giữ đạo và sống đạo giữa đời. Các thánh tử đạo Việt Nam đã trải qua như vậy, nhưng các ngài đã kiên cường giữ vững đức tin và không ngả theo cái xấu.
Về phần đời, Việt Nam có danh tướng Trần Bình Trọng đã chống lại quân Nguyên – Mông năm 1285, đời nhà Trần. Ông bị giặc bắt nhưng khí phách vẫn khẳng khái: “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.” Một tấm gương sáng về tính cương trực và lòng ái quốc. Ngài Thomas Jefferson (1743-1826), tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ, nói: “Nếu pháp luật bất công, người ta không chỉ phải bất tuân mà còn bắt buộc phải làm như vậy.” Thật vậy, Thánh GH Phaolô VI cho biết: “Chính trị là một dạng bác ái cao nhất.”
Lạy Thiên Chúa chí thánh chí tôn, xin ban thêm đức tin và đức mến cho chúng con, xin giúp chúng con can đảm sống chân chính, không xao xuyến trước bất cứ áp lực nào. Lạy chư thánh tử đạo Việt Nam, xin nguyện giúp cầu thay và thúc giục chúng con sống xứng đáng là hậu duệ của các ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.