Bài hát và suy niệm (12.12.2021 – Chúa Nhật III Mùa Vọng Năm C)

Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19

Năm2021:

Năm 2018

 

NL: TRỜI CAO

ĐC: DÂN SION ƠI

HALL: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, người đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó.

DL: KHÚC HOÀI NIỆM

HL: MONG CHỜ GIÊSU

KL: NÀO HỠI DÂN SION

Lời Chúa:  Xp 3,14-18; Pl 4,4-7; Lc 3,10-18

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (Lc 3,10-18)

10 Khi ấy, dân chúng lũ lượt đến xin ông Gio-an làm phép rửa, họ hỏi ông rằng : “Chúng tôi phải làm gì ?” 11 Ông trả lời : “Ai có hai áo, thì chia cho người không có ; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” 12 Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông : “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì ?” 13 Ông bảo họ : “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” 14 Binh lính cũng hỏi ông : “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì ?” Ông bảo họ : “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người, hãy bằng lòng với đồng lương của mình.”

15 Hồi đó, dân đang trông đợi, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi : biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a ! 16 Ông Gio-an trả lời mọi người rằng : “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa. 17 Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân : thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” 18 Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.

Hãy vui lên trong Chúa!

Thật tuyệt!

Chúa Nhật thứ III mùa vọng, Chúa Nhật của màu hồng, màu làm sáng lên niềm vui và hạnh phúc.

Nghe lời Chúa nơi bài đọc của ngôn sứ Xô-phô-ni-a mà nức lòng phấn khởi, òa vỡ niềm vui trong lòng. Vui mừng, sung sướng chẳng phải tự nơi con người có gì vui, mà được vui bởi niềm vui lớn lao do Thiên Chúa mang lại cho những tội nhân, cho thế giới phàm trần vốn ảm đạm, buồn thảm ngần nào. Tự bao đời phận người chìm trong tăm tối, hậu quả của án phạt “nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết.” (St 2,17) Thế mà Tổ Tông đã lầm lỡ ăn vào trái cấm cho biến thành nỗi hận ngàn đời, rắc gieo cái chết làm cho thảm buồn chiếm lĩnh kiếp nhân sinh. Nên từ đó con người phải mặc lấy cát bụi phận người, thân xác bị giam trong đất bụi, ngủ cùng đất và hòa vào với đất sau những ngày đời ngắn ngủi, đầy nước mắt, truân chuyên và khốn khổ trên dương thế

cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra.
Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất
.” (St 3,19b)

Giờ đây, ngôn sứ Xô-phô-ni-a kêu gọi chúng ta hãy mừng vui, vì

Án lệnh phạt ngươi, ĐỨC CHÚA đã rút lại,
thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa.

Còn sung sướng nào hơn giờ phút tử- thần- vĩnh- cửu bị đẩy lui vào ngục tối, án phạt kia được xóa nhòa khỏi những người tin Chúa Cứu Độ cùng lắng nghe rồi đi theo tiếng của Người chỉ vẽ (x. Is 2,3)

Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là ĐỨC CHÚA.

Câu kinh nầy không chỉ là giới thiệu Đức Vua chính là Đức Chúa, mà còn ngầm mạc khải việc hoán chuyển, hòa nhập thần tính vào nhân tính để Đức Chúa trở thành Đức Vua của Ít-ra-en. Hay nói ngược lại, Đức Vua – một con người trong dân Ít-ra-en lại là Đức Chúa. Đây chính là khởi đầu cho niềm vui lớn mà thánh Phao-lô muốn chúng ta hoan hỷ ươm đầy lòng. Một mầu nhiệm chưa từng có trong lịch sử nhân loại, ấp ủ nơi Thiên Chúa tựa nụ hoa ngàn đời mãi còn phong kín nhụy chờ tương lai có ngày hoa nở, đến hôm nay ngày chờ đã tới: Đóa Hoa Tình Ái nở vườn xuân nhiệm mầu. Mầu nhiệm nhập thể và nhập thế tuy đã được Chúa Ki-tô thực hiện cách đây hơn hai ngàn năm, và bây giờ chúng ta mong chờ Người quang lâm. Tuy nhiên, trong đời sống phụng vụ của Hội Thánh, Chúa Thánh Thần luôn tái diễn lại mầu nhiệm này nơi mỗi tâm hồn. Nhất là với những người bị giới hạn trong khả năng đón nhận sủng ân cứu độ và hạn hẹp kiến thức của đức tin. Giới hạn này làm cho người ta lầm tưởng cách nào đó, giống như dân Do thái “Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a!”. Vì ngày đó người ta chưa biết tí gì về mầu nhiệm nhập thể, nên ngơ ngác đoán mò đường lối của Thiên Chúa.

Đức Chúa không từ thế giới siêu nhiên đến với nhân loại mà không có mục đích. Ngôi Hai Thiên Chúa chẳng ở ngôi cao vị thế tuyệt đỉnh kính tôn của muôn loài thụ tạo, xuống với loài người mà không có chủ ý chính đáng. Cho nên, mặc dầu ngôn sứ Xô-phô-ni-a thi hành sứ mạng ngôn sứ trước công nguyên đến gần bảy trăm năm. Vậy mà Thần Khí đã sử dụng ông tiên báo rất đúng rằng

ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi,
Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng.

Người đến với con người làm Vị Cứu Tinh, bởi đã giải phóng con người khỏi tay thần chết và giải thoát khỏi ách nô lệ cho tội lỗi. Một việc làm mà không có phàm nhân hoặc vĩ nhân nào có thể thực hiện, dù tài giỏi hay thánh thiện đến đâu. Cuộc giải phóng của Người quá đỗi anh hùng, rất mực vinh quang vì đã hiến thân mình tế lễ đền tội cho muôn dân trên Thánh Giá. Chúa Giê-su Ki-tô cứu thế đã làm công việc mà cả nhân loại không ai làm nổi. Vì Thiên Chúa làm người lại không hề xa lạ với con người, Người thân thiện, gần gũi, gắn bó, cảm thông sâu sắc phận người. Bởi đó, thánh Phao-lô Tông đồ mời gọi chúng ta hãy thân thiện và tin tưởng Người “Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện.

Trong bối cảnh chân lý đức tin ngôn sứ Xô-phô-ni-a và thánh Tông đồ Phao-lô phác họa, thánh Gio-an Tẩy Giả làm cho thật rõ ràng, sáng nét hơn về Đấng Cứu Chuộc “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.

Một con người được ơn Thánh Thần thanh tẩy ngay trong lòng mẹ, được Chúa chọn làm vị ngôn sứ vĩ đại chẳng ai sánh bằng (x. Lc 7,28a). Vậy mà ông phải nhìn nhận sự thật rằng mình chẳng đáng cởi dây quai dép cho Đấng Thiên Sai. Bởi vì Con Người khiêm hạ cúi xuống cho ngôn sứ Gio-an Tiền Hô làm phép rửa kia, lại chính là hiện thân của Đức Chúa siêu phàm.

Tình Yêu Hoa Cỏ

Làm gì để có niềm vui?

Với phẩm phục màu hồng, phụng vụ Chúa nhật III mùa vọng thể hiện niềm vui đón chờ Chúa đang đến thật gần. Nhưng phải làm sao để có được niềm vui trong “ngày của Chúa”?

Trong Tin Mừng hôm nay, đám đông đua nhau hỏi ông Gioan Tẩy Giả: “Chúng tôi phải làm gì?” Ông trả lời rõ ràng cho mỗi hạng người: “Ai có hai áo, thì hãy chia cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy. Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?” Ông bảo họ: đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh”. Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”. (Lc 3,11-14).

Ông Gioan kêu gọi những người thu thuế sám hối để sống công bằng, không đòi hỏi quá mức đã được ấn định cho họ. Với binh lính ông bảo chớ hà hiếp ai, đừng tống tiền người ta… Ông kêu gọi mọi người sống bác ái: Ai có của ăn, áo mặc hãy chia cho người không có… Cuộc đời Gioan Tẩy Giả luôn nêu gương khiêm tốn, dạy chúng con sống khiêm nhường. Nhìn vào ông dân chúng thời đó luôn nghĩ ông chính là Đấng Mêsia muôn dân đang mong đợi. Nhưng ông đã khiêm tốn mà phân bua: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”.

Chính Gioan Tẩy Giả nhìn thấy Thần Khí ngự xuống trên Đức Giêsu. Mặc khải của Thiên Chúa khiến con mắt xác thịt của ông nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa tràn đầy Thần Khí. “Người đến sau tôi, nhưng có trước tôi”, vì Ngài là Thiên Chúa có từ thuở đời đời. Ông không còn phải nghi ngờ gì nữa.

Lạy Chúa! xin cho chúng con nhận ra Chúa trong những biến cố đời thường, nơi những người anh em bé mọn, thiếu thốn, lầm than vất vả ngay bên, để chúng con niềm nở đón nhận và sẻ chia với họ trong yêu thương và cùng nắm tay nhau đón mừng Chúa đến trong cuộc đời của mỗi chúng con. Xin Chúa cho chúng con nhận ra và sống mầu nhiệm nhập thể của Chúa, khiêm nhường nhìn nhận, biết làm nhỏ đi chính mình, để Chúa được lớn lên trong chúng con mỗi ngày. Ước chi cuộc đời hiện tại của chúng con làm chứng rằng Người chính là Thiên Chúa đã đến và ở lại với chúng con, hôm nay và mãi. Amen.

 Én Nhỏ

***

Mục lục

Năm 2018

1. Thiên Chúa nhảy mừng  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hãy vui lên  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

3. Đạo mang lại phương dược cứu đời  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

4. Hãy sống đạo cách vui vẻ (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

5. Sám hối trong phận vụ (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Lạy Chúa, con phải làm gì? (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Chúng tôi phải làm gì? (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Niềm vui Giêsu  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

9. Đổi mới thực sự từ chính mình  (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)

10. Niềm vui cứu độ  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

11. Suy niệm Chúa Nhật 3 Mùa Vọng_C  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

12. Chúng tôi phải làm gì? –  (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

13. Cuộc chạy đường trường (AM. Trần Bình An)

14. Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?  (Fx. Đỗ Công Minh)

15. Chấp nhận  (Trầm Thiên Thu)

16. Vui trong hy vọng đợi chờ (Lm. Bùi Trọng Khấn)

17. Tôi phải làm gì? (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

18. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 3 Mùa Vọng_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

19. Niềm vui đích thực  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

20. Hãy nghe và thực hành  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

21. Tại sao tôi phải làm việc thiện?  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

22. Một đời màu hồng tươi(Lm. Bosco Dương Trung Tín)

23. Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng_C  (Jorathe Nắng Tím)

24. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng_C  (Lm. Antôn)

.

Năm 2015

Mục lục

1. Niềm vui đích thực (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Chúng tôi phải làm gỉ? (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Loan báo Lòng Thương Xót (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Sống vui vì biết mình được yêu thương (Lm Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

5. Hãy vui lên  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

6. Niềm vui Tin mừng  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An) 

7. Sám hối  (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ) 

8. Công Lý và Hòa Bình  (Trầm Thiên Thu)

9. Vui và Sống (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

10. Chúa Nhật Hồng giữa Mùa Tím  (Lm. Văn Hào, SDB)

11. “Mong đợi” hay “phòng chống” Chúa đến  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

12. Hãy sống trong niềm vui! (Jos. Vinc. Ngọc Biển) 

13. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng_C (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa ) 

14. Niềm vui của tình yêu trao ban (Lm. Giuse Trực)

15. An và Vui  (Huệ Minh)

16. Chia sẻ tình thương và niềm vui của Chúa cho tha nhân  (Lm. Đan Vinh)

 

.

THIÊN CHÚA NHẢY MỪNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Diễn tả hình ảnh “Thiên Chúa nhảy mừng” xem ra là điều báng bổ hoặc xúc phạm, vì làm giảm suy vị thế thiêng liêng cao cả của Ngài. Tuy vậy, đây là điều ngôn sứ Isaia đã được gợi hứng để phát ngôn. Thiên Chúa nhảy mừng, vì niềm vui thật lớn lao vĩ đại. Nhưng, vì cớ gì mà Thiên Chúa vui mừng đến thế? Đó là ngày chiến thắng đối với Sion, tức là đối với dân Israen, bởi vì Chúa rút lại án phạt và đẩy lui thù địch của dân tộc được Ngài tuyển chọn. Ngôn sứ còn dẫn chúng ta tới một lý do quan trọng hơn, là nền tảng cho niềm vui mừng của con người: đó là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài.

“Thiên Chúa nhảy mừng!”. Đó là cách diễn tả “như nhân”, tức là nhân cách hóa Thiên Chúa, trình bày Ngài cũng thể hiện cảm xúc như con người vậy. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường nhảy mừng khi đón nhận một tin vui, hoặc khi đạt được một điều gì mà chúng ta mong đợi. Lời Chúa hôm nay, khi diễn tả Thiên Chúa nhảy mừng, có ý khơi dạy nơi chúng ta niềm vui mừng phấn khởi, trong lúc chờ đón Chúa đến. Thực ra, Đấng Cứu thế đã đến trần gian rồi. Người đang hiện diện giữa cuộc sống của chúng ta. Người hiện diện qua Lời của Người, trong Bí tích Thánh Thể và giữa cộng đoàn cầu nguyện, như chính Người đã hứa. Lời ngôn sứ Isaia nhắc chúng ta về sự hiện diện này, để rồi, cùng với việc chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, hãy đón Chúa đến trong tâm hồn của cá nhân mỗi người. Như thế, lễ Giáng Sinh không có nguy cơ bị biến thành một sự kiện văn hóa hay một ngày lễ hội truyền thống như bao lễ hội khác ta thấy thường ngày ở nơi này nơi kia.

Nếu Thiên Chúa nhảy mừng giữa dân Người, thì mỗi chúng ta, những người Ki-tô hữu, có cảm nhận được niềm vui ấy không? Biết bao người tín hữu chỉ “giữ Đạo” một cách miễn cưỡng, chiếu lệ theo kiểu cha truyền con nối. Họ ít khi, thậm chí không bao giờ, cảm nhận được niềm vui ngọt ngào đến từ sự hiện diện của Chúa. Trái tim và đức tin mách bảo chúng ta, nơi nào có Chúa hiện diện, nơi đó tràn đầy phúc lành, vì Chúa là nguồn mạch của mọi ơn phúc.

“Niềm vui” là chủ đề chính xuyên suốt các Bài đọc Lời Chúa của Chúa nhật III Mùa Vọng. Đó không chỉ là niềm vui của con người, mà là niềm vui của thiên nhiên vũ trụ và muôn loài tạo vật. Quả thế, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”. Khi con người buồn bã, tạo vật xung quanh và môi trường cuộc sống cũng nhuốm màu buồn. Ai trong chúng ta cũng đã có lần kinh nghiệm điều này. Niềm vui thiêng liêng nơi người tín hữu sẽ giúp cho cuộc sống này lạc quan hạnh phúc hơn.

Nếu Thiên Chúa nhảy mừng, thì mỗi tín hữu chúng ta được mời gọi hãy sống lạc quan, trong niềm tín thác nơi Ngài. Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Philipphê, lưu ý các tín hữu đừng lo lắng gì cả, nhưng hãy tạ ơn Chúa và giãi bày trước tôn nhan Ngài những nhu cầu, những trăn trở lo toan của cuộc sống. Đối với nhiều người hôm nay, lời khuyên này xem ra có vẻ lý thuyết và vô nghĩa. Làm sao sống vô tư lạc quan khi có một người thân bệnh nặng, hoặc gia đình đang hoạn nạn thiếu thốn nợ nần? Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, Chúa có phương pháp và đường lối của Ngài. Rất nhiều người đến với Chúa và đã được Ngài đỡ nâng, có thể không đem lại kết quả trực tiếp và không theo cách họ muốn, nhưng chắc chắn Ngài là Cha nhân hậu, biết những người con đang cần gì, và Ngài đã ra tay giải cứu.

Hãy đến với Chúa để tìm thấy niềm vui. Tin Mừng hôm nay kể lại, có biết bao người đến với Gioan Tẩy giả. Họ thuộc đủ mọi thành phần xã hội: người thu thuế, binh sĩ, thợ thuyền. Đến với ông, mọi người đặt câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?”. Ông Gioan đã tùy từng người, từng nghề nghiệp, mà đưa ra những lời khuyên cụ thể. Tựu trung mọi lời khuyên đều giúp họ hoán cải canh tân đổi mới cuộc đời. Đó là điều kiện căn bản để được gặp Chúa và để tìm thấy niềm vui. Để chuẩn bị đón Chúa vào tâm hồn nhân dịp lễ Giáng Sinh, mỗi chúng ta cũng tự đặt câu hỏi : « Tôi phải làm gì đối với Chúa và đối với anh chị em xung quanh ? ». Câu hỏi này giúp ta xác định mình đang đi về đâu, đồng thời mời gọi chúng ta trở về với Chúa để được hưởng trọn vẹn niềm vui Chúa ban cho những ai yêu mến Ngài. Đời sống và lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là gương mẫu cho chúng ta về sự khiêm nhường. Khi nói về Đấng Cứu độ, ông tự coi mình chỉ là đầy tớ, không xứng đáng cởi quai dép cho Người. Trước những người đang tò mò đặt câu hỏi về thân thế của mình, ông khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Sa mạc là nơi vắng bóng người, chỉ có nắng và gió. Lời nói trong sa mạc dễ bị mất hút trong khoảng không gian mênh mông. Gioan Tẩy giả kêu gọi mọi người sám hối theo lệnh truyền của Chúa. Chứng từ khiêm tốn của ông đã  lay động con tim nhiều người và thúc đẩy họ đến dìm mình trong dòng nước để được ơn tha thứ.

Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau nơi hang đá máng cỏ. Trời với đất nên một nơi Hài nhi Giêsu. Đón nhận Chúa Cứu Thế là đón nhận niềm vui. Hình ảnh Thiên Chúa nhảy mừng gợi hứng cho chúng ta sống niềm vui và loan báo niềm vui cho những người xung quanh. Quả vậy, « niềm vui được chia sẻ thì càng được nhân lên ». Nếu chúng ta biết rao truyền niềm vui cho những người khác, thì niềm vui ấy càng lớn mãi, tỏa sáng và âm vang đến mọi ngõ ngách của cuộc đời.

 

.

 

HÃY VUI LÊN

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi  

Việc Gioan Tẩy Giả rao giảng, kêu gọi ăn năn sám hối,canh tân đổi mới đã làm cho mọi người thuộc mọi cấp bậc, ngành nghề khác nhau trong xã hội thời đó băn khoăn tự hỏi :” Chúng ta phải làm gì đây ?”…Đúng thật, Gioan có uy tín rất lớn, Ngài đã kêu gọi mọi người phải thay đổi lối sống; sống đạo đức, thánh thiện, ngay trong môi trường họ đang sống và đang làm việc… Do đó, con người phải sống hy vọng và sống vui tươi, thanh thoát.

Vâng, Gioan không bảo những người này phải bỏ những địa vị, những công việc họ đang làm, nhưng Ông kêu gọi họ sống tốt, ngay lành ngay nơi họ đang sống, ngay trong địa vị và ngay nơi công việc họ đang làm.Gioan Tẩy Giả không nói họ phải rời bỏ nhiệm sở, để vào sa mạc tĩnh dưỡng, tu thân, không Ông kêu gọi họ thay đổi…Sự  đổi mới mà Gioan mời gọi mang chiều kích cộng đoàn, sẵn sàng làm mới con người của mình bằng hành động cụ thể. Thánh Phaolô trên đường đi Đamas, đã bị Chúa quật ngã khỏi ngựa khi Ông đang hăng say bắt bớ Giáo hội…Và Ông thưa với Chúa :” Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Đây là thái độ mau mắn làm theo thánh ý Chúa, tuy nhiên, tâm tình này không phải là dễ dàng đối với mọi người. Nói như Đức Maria :” Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Ngài nói ( Lc 1, 38), thật cao cả và quí hóa biết bao! Con người chúng ta muốn tốt đẹp, muốn trở nên hoàn thiện, phải cố gắng thay đổi đời sống, canh tân chính mình. Như vậy, sám hối canh tân không có nghĩa là quay về với dĩ vãng để ăn năn, nhưng còn hướng đến một tương lai rạng rỡ, tốt đẹp hơn.Gioan Tiền hô đã khuyên bảo những ai có quyền thế, địa vị đừng hà hiếp người khác,đừng bóc lột dân. Một khi đã có tâm tình, thái độ sống đẹp, sống bác ái, yêu thương, nghĩa là từ bỏ nếp sống gian tà,họ sẵn sàng đón Đấng Cứu Tinh đang đến. Sám hối không chỉ là một cảm xúc, một sự hối hận mông lung, nhưng là một quyết tâm trở về với sự can đảm, cương quyết của mình. Thay đổi không chỉ là hướng tới một đời sống thánh thiện, đạo đức cho riêng mình, mà dành cho Chúa Đấng cứu độ chỗ đứng ưu tiên nhất trong cuộc đời mình.Gioan Tẩy Giả hô hào con người, mọi người hãy biết quảng đại, chia sẻ, phải có trái tim trong sáng để làm những công việc tỏa sáng. Thánh Têrêsa thành Calcutta đã luôn mời gọi con người hãy làm những công việc tốt đẹp, lành thánh…Hãy nở một nụ cười để mang lại niềm vui cho những con người đang gặp những chông gai thử thách. Hãy vui với người vui.Hãy khóc với người khóc như thánh Phaolô khuyên nhủ. Sám hối là nhìn lên Chúa để noi gương Chúa hơn là nhìn vào mình để so sánh với người khác. Thay đổi không có nghĩa chỉ ích kỷ bo bo làm cho mình tốt mà quên đi sự liên đới với anh chị em, liên đới với mọi người. Hãy làm mới con người cũ,con người tội lỗi yếu hèn của mình bằng cách làm những việc tốt, yêu thương cụ thể. Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đã luôn yêu thương những người nghèo, những người hấp hối, những người bơ vơ vất vưởng, không nhà không cửa.Đó là những hành động yêu thương cụ thể.

Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài không muốn chúng ta quá bận tâm, lo âu vật chất, bám víu lấy bạc tiền.Ngài muốn chúng ta thanh thản như Ngài đã nhắn nhủ các môn đệ khi đi truyền giáo.Ngài muốn chúng ta phải có quyết tâm ra khỏi chính mình chứ đừng níu kéo của cải như chàng thanh niên giầu có. Ngài muốn chúng ta sống hy vọng, sống niềm tin phó thác vào Chúa. Ngài mời gọi chúng ta hãy vui mừng vì Ngài đã tới và đang ở giữa nhân loại, ở giữa chúng ta.

Các bài đọc hôm nay là lời đáp trả lại tình thương của Thiên Chúa vì Ngài đến đem hạnh phúc, niềm vui, hy vọng và ơn cứu độ cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến uốn nắn chúng con để chúng con luôn mau mắn đáp lại lời mời gọi yêu thương của Chúa. Maranatha! Lạy Chúa xin hãy đến…

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Chúa nhật 3 Mùa vọng nói lên điều gì ?

2.Gioan Tẩy Giả kêu gọi chúng ta phải làm gì ?

3.Sám hối là gì ?

4.Tại sao Gioan Tẩy Giả lại kêu gọi chúng ta phải sống công chính?

5.Mỗi người chúng ta phải có quyết tâm nào trong Mùa vọng này ?

 

.

ĐẠO MANG LẠI PHƯƠNG DƯỢC CỨU ĐỜI

Lm. Inhaxio Trần Ngà

Mỗi thứ bệnh đều cần được điều trị bằng những thứ thuốc khác nhau. Nhiễm trùng thì phải dùng đến các loại kháng sinh, sốt cao thì cần những thứ thuốc hạ nhiệt, còn ung thư thì cần phải xạ trị  hoặc phẫu thuật cắt bỏ khối u, vân vân…

Tuy nhiên, đối với các chứng bệnh của tâm hồn con người như tham lam, ích kỷ, gian dối, kiêu căng, áp bức, hận thù… thì không có loại dược phẩm nào trên khắp thế giới có thể điều trị được mà cần phải nhờ đến những phương dược do Thiên Chúa đề ra. Chính Chúa Giê-su và các sứ giả Ngài sai đến là những bác sĩ tinh thần kê toa điều trị những chứng bệnh này.

Gioan tẩy giả là một trong những bác sĩ tinh thần đó.

Đối với người khá giả mắc bệnh ích kỷ, tham lam… thì Gioan tẩy giả kê toa: “Hãy chia cơm sẻ áo cho người khác” (Luca 3, 11).

Đối với người thu thuế mắc chứng nhũng nhiễu dân lành thì ngài điều trị bằng lời răn dạy: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh” (Luca 3, 13).

Đối với người quyền lực mắc chứng ức hiếp dân lành và tham nhũng thì ngài điều trị bằng lời răn bảo: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình” (Luca 3, 14).

Nói tóm lại, đối với những căn bệnh tâm hồn do tội lỗi gây ra, thì không thứ thuốc nào trên thế giới này có thể điều trị được mà cần nhờ đến lời răn của Thiên Chúa là thứ thuốc kiến hiệu nhất.

Chúa Giê-su là lương y hàng đầu

Chúa Giê-su đến trần gian làm người và vai trò quan trọng bậc nhất của Ngài là làm Thầy thuốc cứu chữa đủ thứ bệnh nhân.

Ngài đã chữa vô vàn người đau yếu mắc đủ các chứng bệnh khác nhau như bại liệt, phong hủi, mù lòa, câm điếc, què quặt…  bằng cách chạm đến các bệnh nhân hoặc dùng lời truyền cho bệnh tật biến mất và họ được chữa lành.

Sứ mạng của Ngài là “Cho người mù được thấy, kẻ què được đi , người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết được sống lại… ” (Mt 11,4).

Quan trọng hơn, Ngài quan tâm cứu chữa những con bệnh tinh thần như Gia-kêu, tên trùm thu thuế đầy tội lỗi, như người phụ nữ phạm tội ngoại tình và nhiều tội nhân khác.

Ngài tự giới thiệu mình là thầy thuốc cứu chữa những người tội lỗi như lời Ngài nói: “Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng người đau ốm mới cần. Tôi không đến kêu gọi người công chính nhưng là người tội lỗi” (Mc 2,17).

Hội thánh tiếp nối sự nghiệp cứu chữa của Chúa Giê-su

Chúa Giê-su truyền cho Hội thánh tiếp nối sứ mạng cứu chữa của Ngài để tiếp tục điều trị những căn bệnh của xã hội loài người, chủ yếu là những chứng bệnh tinh thần do tội lỗi gây ra. Ngài phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21).

Như thế, vài trò của Hội thánh Chúa là dùng Lời Chúa như phương dược tuyệt vời để cứu chữa cho muôn người khắp nơi mang đủ thứ tội lỗi và thói hư tật xấu khác nhau.

Mỗi người chúng ta là thành viên trong Hội thánh, chúng ta phải tham gia vào sứ mạng cứu chữa của Hội thánh.

Trước hết, chúng ta phải vận dụng Lời Chúa để tự điều trị cho mình khỏi các thói hư tật xấu trước, và sau đó, chúng ta phải dùng Lời Chúa để điều trị nhiều thứ bệnh đang bùng phát, đang lây lan trong gia đình, trong xóm đạo và trong xã hội chúng ta hôm nay.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho nhân loại hiểu rằng các loại dược phẩm cần thiết để chữa trị các chứng bệnh thể xác thế nào thì Lời Chúa cũng cần thiết để điều trị các chứng bệnh của tâm hồn như ích kỷ, tham lam, hận thù, ghét ghen… như thế.

Và Chúa giúp chúng con hiểu rằng các y bác sĩ là những người có vai trò quan trọng trong việc chữa lành và cứu sống các bệnh nhân thì các sứ giả Tin mừng của Chúa cũng là những người có vai trò quan trọng trong việc cứu chữa những tâm hồn bị tội lỗi làm cho băng hoại.

Xin cho mỗi người chúng con trở nên những thầy thuốc tinh thần, biết vận dụng Lời Chúa để cứu chữa cho mình và cho những người chung quanh.

 

.

HÃY SỐNG ĐẠO CÁCH VUI VẺ

 Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật III Mùa Vọng quen gọi là Chúa nhật của Niềm Vui (Gaudete). Phụng vụ lễ ca, từ bài đọc, Thánh vịnh đáp ca cho đến màu sắc, tất cả đều diễn tả niềm vui sâu sắc ngập tràn. Với nhiều cung giọng khác nhau, nhưng Sôphônia, Luca tác giả Tin Mừng và cả thánh Phaolô nữa cũng đều hòa chung một khúc hát ca mừng Chúa đang đến mang lại niềm vui ơn cứu độ cho hết mọi người. Mùa sắc từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh ló rạng, đánh dấu nửa chặng đầu của Mùa Vọng, nay Giáo hội tạm dừng, lấy thêm can đảm bước tiếp, để chuẩn bị tâm hồn tốt hơn để cảm nghiệm được niềm vui thực sự của Lễ Giáng Sinh đã gần kề.

Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! “

Mặc lấy tâm tình của dân Chúa, đọc và nghe những lời trên chúng ta cảm thấy lòng đầy niềm vui thiêng thánh ngập tràn làm sao không vui mừng được.

Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng ?

Câu trả lời đúng nghĩa nhất : Chúa là nguyên nhân niềm vui của dân Chúa và của chúng ta. Trong lúc Vương quốc Giuđa bị Assyri tàn phá và Vương quốc Israel phải đi lưu đầy, Isaia loan báo rằng một đám đông người bị bỏ rơi, bị khinh dể, bị thương tích sẽ được Thiên Chúa đến cứu. Quả thật : “Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa… Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi “. Vui vì có Chúa ở cùng. Nhưng để có được Thiên Chúa đến ở cùng chúng ta làm gì nếu không phải là hoán cải.

Hoán cải

Lời Chúa qua miệng của Gioan Tiền Hô tiếp tục vang lên, gửi đến mọi thành phần dân chúng không trừ một ai. Hoán cái, vâng cần phải hoán cải, phải thay đổi hướng đi, thực thi đức công bằng, sống tình liên đới và tiết độ là những giá trị không thể tách rời khỏi một cuộc sống hoàn toàn nhân bản và Kitô chân chính.

Một đám đông thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội Do thái thời bấy giờ, đôi khi đối nghịch nhau về cách sống cùng đến nghe Gioan giảng. Họ không hỏi : “Chúng tôi phải tin gì? “, nhưng hỏi : “Chúng tôi phải làm gì ? “

Để trả lời, Gioan Tẩy giả mời gọi họ chuẩn bị cho Đức Messia đến bằng cách thực hiện những việc làm cụ thể và có ý nghĩa. Gioan không đưa ra một giáo huấn trừu tượng, đơn giản Gioan mời gọi họ chia sẻ những gì mình đang có : “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy” (Lc 3,10). Như thế, Gioan đặt sự sẻ chia, một khía cạnh của công bằng lên hàng đầu. Với những kẻ thu thế mang tiếng là tội lỗi cũng đến nghe Gioan giảng. Gioan đề nghị với họ, trong khi tác nghiệp đừng đòi nhiều hơn những gì họ phải trả. Có nghĩa là đừng đòi tiền hối lộ! Rõ ràng là thế. Với các binh sĩ, có lẽ là lính ngoại đạo, được tuyển vào phục vụ trong quân đội vua Hêrôđê. Gioan Tẩy Giả không lên án nghề nghiệp của họ, nhưng khuyên nhủ họ phải tôn trọng công lý, đừng bóc lột của ai điều gì nhưng hãy hài lòng với đồng lương của mình (Lc 3,14).

Sống Đạo với niềm vui

Giờ Kinh truyền tin tại quảng trường thánh Phêrô ngày13 tháng 12 năm 2015: Ðức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu sống tinh thần vui tươi giữa bao nhiêu khó khăn trong cuộc sống. Ngài nhận xét rằng Chúa nhật thứ III Mùa Vọng giúp chúng ta tái khám phá một chiều kích đặc thù của sự hoán cải, đó là sự vui mừng: “Ngày nay cần có can đảm để nói về niềm vui, nhất là cần đức tin! Thế giới bị vây bủa vì bao nhiêu vấn đề, tương lai đầy bấp bênh và sợ hãi. Nhưng Kitô hữu là người vui tươi, và niềm vui của họ không phải là một cái gì hời hợt chóng qua, trái lại sâu xa và bền vững, vì đó là một hồng ân của Thiên Chúa lấp đầy cuộc sống. Niềm vui của chúng ta xuất phát từ xác tín ‘Chúa ở gần’” (Phi 4,5).

Cũng như đám đông xưa kia, giờ đây chúng ta cũng đặt câu hỏi : Thưa ông Gioan chúng tôi phải làm gì? Gioan Tẩy giả không đòi chúng ta làm điều kì diệu. Nhưng chắc chắn ngài sẽ bảo chúng ta hoán cải khởi đi từ việc chia sẻ, chu toàn bổn phận của người Kitô hữu.

Chúng ta hãy phó thác hành trình Mùa Vọng tiếp theo của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.

 

.

SÁM HỐI TRONG PHẬN VỤ

Anna Cỏ May

Trong cuộc sống, khi gặp một vấn đề khó khăn và bế tắc, mọi người thường chất vấn mình rằng: “Tôi phải làm thế nào đây?” Nếu sự việc không được giải quyết, họ sẽ tìm ai đó để giúp đỡ. Tuy nhiên, cũng có ít người đã không thoát được sự khó khăn của mình.

Sau khi nghe những lời ông Gioan nói về việc sám hối, đám đông đã hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì đây?” Ông Gioan trả lời: “Ai có hai áo thì chia cho người không có;  Ai có gì ăn thì cũng hãy làm như vậy” (Lc 3,11). Câu trả lời của ông Gioan là một lời nhắn nhủ chung cho tất cả mọi người không có luật trừ dù là người nghèo, vì người nghèo thì chia sẻ cho người nghèo hơn mình. Trong số những người chịu phép rửa, có những người thu thuế cũng muốn được chịu phép rửa nên đã hỏi ông Gioan: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì đây?” (Lc 3,12). Dựa vào chức vụ của họ, ông mời gọi họ đừng đòi hỏi gì là quá mức đã ấn định cho họ. Việc quá mức là không tăng tiền thu thuế với mức đã định để thu lợi riêng. Họ không được làm những hành động ngoài phạm vi của một người thu thuế mà hãy sống công chính. Đối với người binh lính cũng vậy, họ chớ hà hiếp ai, cũng không tìm cách kiếm lợi cho bản thân. Trái lại, họ cần vui vẻ đón nhận với số tiền lương của mình (x. Lc 3,12-14).

Ông Gioan đã trả lời từng câu hỏi để cho mọi người nhận thấy việc sám hối không chỉ dừng ở lời nói “ xin lỗi” hay bằng những khuôn mặt u buồn mà còn phải hành động. Mọi người cần thể hiện lòng sám hối ngay trong các chức vụ, phận sự hằng ngày. Bạn là sinh viên ư? Hãy làm tròn một sinh viên. Bạn là cha mẹ ư? Hãy chăm sóc dạy dỗ các con của mình sống yêu thương. Bạn đang được mời gọi sống đời thánh hiến chăng? Hãy sống vui tươi và trọn lành trong lời cam kết. Bạn đang làm việc kiếm sống chăng? Hãy làm việc với hết khả năng và sự liêm chính để phục vụ anh chị em. Như vậy, việc sám hối luôn được thực hiện hằng ngày.

Thánh Phaolô đã viết: “Khi tôi muốn làm việc thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay” (Rm 7,21). Mang thân xác yếu đuối, mỗi người dễ sa vào con đường tội lỗi. Trong từng ngày sống, mỗi người nỗ lực tránh sai lầm ngay cả việc nhỏ chuyện to, và biết chạy đến với Chúa trong Thần Khí và kết hợp với Ngài bằng cách tham dự thánh lễ hằng ngày, mọi người sẽ được tràn đầy yêu thương và sự tha thứ của Chúa. Hãy nhớ rằng Thiên Chúa cũng là Đấng công chính nhưng giàu lòng xót thương.

Lạy Chúa, sám hối ở lời nói thì dễ hơn việc làm. Khi đứng trước vẻ đẹp quyến rũ của trần gian mà sự xấu đội lốt, xin Chúa cho mỗi người chúng con cố gắng khước từ. Trong mọi chức vụ công việc, xin cho chúng con thực thi với tinh thần bác ái. Nhờ đó, chúng con có được một tâm hồn trong sạch, sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Amen.

 

.

LẠY CHÚA, CON PHẢI LÀM GÌ?

Bông Hồng Nhỏ

Trước khi ra đồng, người mẹ trẻ dặn dò các con:

  • Chị Hai ở nhà nhớ phơi cho mẹ bao đậu đen. Phúc nhớ dắt trâu sang cho chú Nam mượn.
  • Dạ vâng ạ.
  • Mẹ ơi! Còn con thì làm gì?

Bé út mới năm tuổi cũng hỏi mẹ. Nghe con gái yêu hỏi, mẹ bật cười rồi âu yếm:

  • À! Con ở nhà chơi cho ngoan là được.

Trước một lời đề nghị hay lời mời gọi nào đó, người ta vẫn thường tự hỏi mình hoặc hỏi người khác: “Tôi phải làm gì? Sau khi nghe ông Gioan Tẩy Giả rao giảng, có rất nhiều người đến xin ông làm phép rửa, họ cũng hỏi ông: “ Chúng tôi phải làm gì đây?” (Lc 3,10). Quả là, khi đã quen với một lối sống, người ta khó thay đổi và nhiều khi không biết phải thay đổi từ đâu. Từng ngày Chúa vẫn gieo vào tâm hồn ta, vào trí óc ta Lời của Người. Có nhiều lần lòng ta cháy lên một khao khát mãnh liệt, khao khát được đổi mới, đổi mới con người sao cho giống Chúa hơn. Ta cũng hỏi Chúa rằng: “ Lạy Chúa, con phải làm gì?” Chiêm ngắm cuộc đời của Chúa Giêsu, ta nhìn thấy con đường Chúa đã đi, ta lắng nghe được lệnh truyền của Chúa, ta thấy lối sống của Chúa. Chúa Giêsu đã nhìn thẳng vào ta bằng ánh mắt xót thương, Chúa đã yêu ta đang khi ta là tội nhân, và Chúa đã chọn ta dù ta bất xứng. Từng ngày, ta hãy năng chuyện trò cùng Chúa để biết được ta phải làm gì, để biết đâu là điều cốt yếu và căn bản của người môn đệ. Trong cầu nguyện, lao động hay học tập, Chúa vẫn chỉ cho ta đường lối phải đi. Hãy dành cho Chúa một vị trí ưu tiên trong trái tim ta, để khi ta sống, Chúa luôn hiện diện với ta như từng hơi thở và từng nhịp đập của trái tim. Bởi vì Chúa là sự sống của ta. Ta đang giữ vị trí và vai trò gì trong cộng đoàn, nơi trường học, trong công sở, … thì hãy sống hết mình, sống hết tình trong vai trò đó. Chúa đã đặt để ta vào đó là vì Chúa muốn ta thi hành sứ mạng Chúa trao phó.

Giả như ta được thành công lẫy lừng như ông Gioan Tẩy Giả lúc bấy giờ, ta sẽ làm gì khi được mọi người ca ngợi? Để có được sự khiêm tốn như ông Gioan Tẩy Giả, đòi hỏi ta phải biết xóa mình đi. Mọi việc ta làm, mọi điều ta sống dù có thành công mỹ mãn thì cũng là bởi ơn Chúa ban cho. Tự sức ta, ta sẽ làm được gì đây? Ông Gioan biết dân chúng coi mình là Đấng Mêssia, dù là không nói công khai. Ông ý thức vai trò của mình chỉ là “tiếng hô” mà Thiên Chúa đã chọn, là người dọn đường cho Chúa. Ông sẵn sàng rút lui, sẵn lòng chỉ cho dân chúng biết Đấng Mêsia. Khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (x.Ga 1,29). Cuộc sống của ta có trở nên một lời chứng sống động cho Chúa giữa đời không?

Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Cảm tạ Chúa đã chỉ cho con biết phải làm gì để đón chờ Chúa đến. Chúa còn muốn con trở nên một lời mời gọi người anh chị em mở lòng đón chờ Chúa. Xin cho con ý thức thân phận mỏng giòn của mình, biết cậy trông nơi lòng nhân hậu của Chúa, để khi sống đẹp lòng Chúa con biết cất cao lời ngợi khen Chúa; dù có vấp ngã vì yếu đuối, xin cho con biết đứng lên với niềm hy vọng nơi Chúa. Xin cho con biết chọn Chúa trong từng chọn lựa nhỏ bé hằng ngày để Chúa là cuộc sống của con. Amen.

 

.

CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

“Chúng tôi phải làm gì?”. Đây là câu hỏi các nhà sản xuất chế tạo thường xuyên đặt ra với sản phẩm của mình: Tôi phải làm gì… để cải tiến công nghệ… để nâng cao chất lượng hàng hoá? Kết quả là họ đã thực hiện được vô vàn cải tiến trong rất nhiều lãnh vực, từ máy bay siêu thanh khổng lồ cho đến những con chíp nhỏ xíu, tất cả đều được cải tiến nhanh chóng phi thường. Không chỉ trong lãnh vực công nghệ lớn lao mà ngay cả trong các mặt hàng tiêu dùng nhỏ mọn hằng ngày như cái chổi lau nhà, cái thùng rác nằm trong xó bếp, cũng luôn được cải tiến. Nói chung, tất cả mọi sản phẩm do con người làm ra, từ những sản phẩm lớn lao đồ sộ cho đến những thứ ti tiểu như cái chổi quét nhà… cũng đều được cải tiến từng giờ từng phút!

Một đất nước phát triển là nhờ kết quả của những việc làm cụ thể.

Tôi vừa đọc trên fb Đỗ Ngọc Thống có bài viết “Thưa Thủ Tướng”.

Hôm qua 8/12, Thủ tướng làm việc với tỉnh Đắk Lắk (vtc.vn/thu-tuong-dak-lak-thieu-qua-dam-thep), tại đây ông phát hiện tỉnh này còn thiếu “quả đấm thép”. Tôi đọc thấy băn khoăn, bạn tôi bảo: Có thể Thủ tướng quen nói kiểu ấy rồi và hình như không ai góp ý với ông về cách phát biểu như thế.

Rồi cậu ấy dẫn ra hàng loạt câu nói tương tự của Thủ tướng khi đến các tỉnh như: “Thanh Hoá là một Việt Nam thu nhỏ”, “Phú Yên là cô gái đẹp đang ngủ quên”, “Khánh Hoà phải là hình mẫu của một chính quyền đối thoại”, “Bắc Ninh phải là thủ phủ sản xuất điện tử sáng tạo của châu Á và thế giới”, “Bình Phước phải là thủ phủ của nông-công nghiệp cao”, “Ninh Bình phải thành một trung tâm du lịch tầm cỡ quốc tế”, “Bình Thuận phải trở thành trung tâm năng lượng sạch”, “Hà Nội phải là trung tâm khởi nghiệp sáng tạo”, “Thành phố Hồ Chí Minh phải là hòn ngọc chiếu sáng Viễn Đông”, “Đà Nẵng phải là thành phố độc đáo, độc nhất vô nhị trên toàn thế giới”, “Sóc Trăng phải là kho chứa bạc của các nhà đầu tư”, “Ninh Thuận là Tây Á thu nhỏ”,…

Ví von nhiều quá nên dễ lặp, có đến mấy tỉnh: Hải Phòng, Long An, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Cần Thơ, Bình Dương… đều “phải trở thành đầu tàu kinh tế”. Rồi Thủ tướng lại nói: “Nghệ An phải là vùng đất khởi nghiệp và thu hút nhân tài”, thế chẳng lẽ các tỉnh khác không phải thế?…

Kính thưa Thủ tướng!

Xưa nay các đấng quân vương, các vị đứng đầu quốc gia đều trị vì, lãnh đạo, điều hành đất nước bằng luật pháp và chính sách, bằng những chủ trương và các giải pháp rất cụ thể. Không ai chỉ nói hay, nói giỏi mà đất nước đi lên cả. Cũng có tuyên ngôn, nhưng rất ít và chỉ nói trong những dịp “quốc gia đại sự” để giữ được sự trang trọng, thiêng liêng. Cái chính là phải hành động.

Đức Thánh Trần từng răn: “cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh;…tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai”. Ông Mác cũng đã cảnh báo: “Vũ khí phê phán không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất”. Vì thế chính phủ kiến tạo và hành động của Thủ tướng chủ yếu là phải làm, phải thực thi quyết sách một cách quyết liệt; không chỉ tuyên bố; không nên tuyên ngôn nhiều. Bằng việc làm, bằng những minh chứng thật sự về thành quả phát triển của đất nước trên mọi phương diện, làm cho mong ước của Ức Trai xưa: “khắp nơi thôn cùng, xóm vắng không có tiếng oán hận, sầu than” trở thành hiện thực mới là gốc của mọi niềm tin.

Tôi chỉ là một lương dân, xin thành thực góp ý với Thủ tướng. Tôi nếu có nói sai chỉ ảnh hưởng đến mình tôi, còn Thủ tướng nếu nói dở sẽ ảnh hưởng tới cả đất nước, buồn cười cho cả đất nước. Báo chí cũng đừng vì nịnh nọt mà giật những tít bài màu mè, thớ lợ; tưởng đề cao hóa ra lại hạ thấp Thủ tướng.

Cũng biết “trung ngôn nghịch nhĩ”, nhưng vì trân trọng Thủ tướng mà đành phải nói đôi lời. (Hà Nội 9-12, Đỗ Ngọc Thống).

***

Tác giả nói thật đúng: Bằng việc làm, bằng những minh chứng thật sự về thành quả phát triển của đất nước.

Chúa Giêsu đã từng dạy rằng: “Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động” (Mt 11,19). Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng việc làm, để biết ý nào là ý khôn ngoan, cần phải nhìn vào kết quả cụ thể.

Sứ điệp Chúa Nhật II, Gioan Tẩy Giả kêu gọi dân chúng sám hối dọn con đường tâm hồn. Chúa Nhật III, Tin Mừng kể chuyện, lời của Gioan đạt kết quả cụ thể là có nhiều người phục thiện, sẵn sàng cải đổi nếp sống cũ. Nhiều người đến xin Gioan những lời khuyên thiết thực: “Chúng tôi phải làm gì đây?”. Họ xin ngài chỉ dẫn cách phải sống và việc phải làm.Tùy từng người mà Gioan khuyên bảo cụ thể:

– Đối với dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”.

– Đối với người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”.

– Đối với các quân nhân: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.

Các lời khuyên của Gioan khuyến khích mọi người thực hiện công bằng và bác ái. Công bằng là sống đúng luật pháp: “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định”; “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta”. Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”.

Thánh Gioan rất thực tế và có những giải pháp thích ứng với từng hoàn cảnh, từng hạng người. Gioan không bảo mọi người hãy sống như ngài hoặc gia nhập nhóm của ngài. Gioan không yêu cầu ai phải làm gì khác thường, cũng không đòi hỏi họ phải đổi nghề nghiệp hay đổi chỗ ở, nhưng ngài khuyên : dù ở hoàn cảnh nào cũng phải biết thắng dẹp tính vị kỷ, bằng cách làm việc bác ái, chia sớt với anh em mình, đó là cách sám hối tốt nhất. Gioan khuyên họ phải bằng việc làm cụ thể mới trở thành người biết yêu thương và đáng mến.

Chúng tôi phải làm gì?”. Dân chúng hỏi Gioan Tẩy Giả ở bờ sông Giođan. Sau lễ Hiện Xuống, đám đông cũng đặt câu hỏi ấy với thánh Phêrô: “Chúng tôi phải làm gì?”. Đó cũng là một cách nhắc lại rằng, đức tin phải thực tiễn và sống động. Chúa Giêsu dạy: “Không phải những người nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, nhưng là những người thực hiện ý muốn của Cha Ta” (Mt 7,21). Ngài luôn đòi hỏi bằng việc làm cụ thể: “Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? …Đức Giêsu đáp: Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. (x.Mc 10, 17-27). Người nghe mà không làm thì giống như người xây nhà không nền móng (Lc 6,49).Trong cuộc đối thoại với một luật sĩ, Ðức Giêsu đã bảo ông: “Hãy làm như vậy và ông sẽ được sống” (Lc 10,28). Sau dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Ngài còn dặn ông: “Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37).

Lạy Chúa, con phải làm gì?”. Đây là câu nói đầu tiên của thánh Phaolô sau cú ngã ngựa trên đường đi Đamát (x.Cv 9,1-19). Phaolô được biến đổi và trở thành vị Tông đồ chuyên lo rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Từ đây cuộc đời của thánh nhân đã viết nên thiên anh hùng ca, sống và chết cho Đức Kitô.

Đối với chúng ta ngày nay, lời khuyên của thánh Gioan rất thiết thực trong những ngày chờ đón Chúa giáng sinh. Mỗi người hãy tự đặt câu hỏi: “Còn tôi, tôi phải làm gì ?”. Cách trả lời của Gioan còn nguyên giá trị: mỗi người hãy sống đúng cương vị của mình, hãy hoàn thành trách nhiệm của mình, hãy thực thi tình bác ái huynh đệ và sống trong tương giao tốt đẹp với mọi người. Gioan không đòi những điều kì diệu, nhưng rất đơn giản và thực tế. Người dấn thân phục vụ thì sống đời tận hiến.Người có gia đình được mời gọi sống yêu thương, trung thành. Người thương gia ngay thẳng, người quản lý tín trung.Người làm công chu toàn bổn phận, người chủ quảng đại khoan dung.Người có hai áo thì chia cho người không có áo mặc.Người có quyền thì yêu thương đùm bọc kẻ dưới. Ai nấy sống đúng chức phận của mình trong công lý và tình yêu.

Có một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người Tân tòng và một người chưa có niềm tin như sau:

– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?

– Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Đức Kitô.

– Vậy xin hỏi anh, Ông Giêsu sinh ra ở quốc gia nào?- Rất tiếc là tôi quên mất chi tiết này.

– Thế khi chết ông ta được bao nhiêu tuổi?

– Tôi cũng nhớ không rõ nên chẳng dám nói.

– Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài?-

Tôi không biết.

– Quả thật anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã theo đạo.

Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước tôi là một người nghiện rượu sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ, gia đình tôi xuống dốc trầm trọng, bao nhiêu của cải tôi đều nướng vào các cuộc men say tuý luý. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận, buồn tủi và xấu hổ.Thế mà bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc. Vợ tôi, các con tôi ngóng trông và vui mừng đón đợi tôi sau khi tôi đi làm về. Những điều này, không ai khác hơn chính là Đức Kitô đã làm cho tôi và đó là tất cả những gì tôi biết về Người.

Chúng tôi phải làm gì?“. Mùa Vọng này, mong sao những thao thức sẽ biến thành việc làm cụ thể.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết hỏi, để được nghe câu trả lời: “Hãy chia cơm sẻ áo,đừng hà hiếp anh em,vui lòng sống hiện tại, tôn trọng lẽ công bằng”.

Lạy Chúa, chúng con đang tiến gần đến niềm vui mừng ngày Con Chúa giáng trần. Như xưa dân chúng đã khiêm tốn và thành tâm đón nhận lời mời gọi sám sối của Gioan Tẩy Giả, xin cho chúng con giờ đây cũng biết tích cực cải thiện đời sống bằng việc làm cụ thể và cùng giúp nhau chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến trong công bình và yêu thương. Amen.

 

.

NIỀM VUI GIÊSU

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Hôm nay được gọi là “Chúa Nhật Hồng”, vì chúng ta thấy lễ phục màu hồng. Màu hồng tượng trưng cho tình yêu và niềm vui. Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta “Hãy vui lên, vì Chúa sắp đến rồi”. Thế thì, niềm vui trong Chúa là niềm vui nào?.

Kinh nghiệm cho thấy, có những bữa tiệc diễn ra trong niềm vui òa vỡ, tay bắt mặt mừng, dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp, cùng nâng ly rượu làm ngất ngây tâm hồn. Cộng thêm chương trình văn nghệ, hòa với những lời ca tiếng nhạc kích động nhảy nhót tưng bừng thật là vui nhộn, nhưng rồi sau khi tiệc tàn, dư âm để lại là trạng thái chán chường mệt mỏi rả rời.

Ngược lại, khi chúng ta tự thắng mình vượt qua cơn cám dỗ nào đó, hay thực hiện một nghĩa cử yêu thương, theo như lời Gioan tẩy giả mời gọi trong Tin mừng hôm nay “Ai có hai áo hãy cho người không có; ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”, thì tâm hồn mình cảm thấy có niềm vui bên trong, tuy nhẹ nhàng thầm kín thôi, nhưng lại rất sâu xa. Như thế, đó mới thật là niềm vui trong Chúa, niềm vui biết cho đi, biết sống cho người khác.

Đức Giêsu chính là niềm vui cho nhân loại. Không vui sao được, vì sau bao ngàn năm dân tộc bước đi trong u tối đợi trông, nay được nhìn thấy ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng bừng lên chiếu soi những người ngồi trong bóng tối sự chết.

Thật vậy, trong bài đọc I, ngôn sứ Xôphônia hô lên: ” Hỡi thiếu nữ Sion! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem! Hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn, vì Thiên Chúa đến giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi”(Xp 3,14).

Trong bài đọc II, thánh Phaolô tông đồ cũng mời gọi các tín hữu: “Anh em hãy vui lên, hãy vui lên trong niềm vui ơn cứu độ, vì Chúa sắp đến rồi” (Pl 4,4).

Trong niềm vui này, Mẹ Maria là người diễm phúc đón nhận đầu tiên, khi được sứ thần Gabriel loan báo trong buổi truyền tin: “Mừng vui lên! Hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28). Khi đón nhận niềm vui Giêsu trong lòng, Mẹ Maria liền cất tiếng tạ ơn” Tâm hồn tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 46).

Tiếp đến, niềm vui của Gioan tẩy giả. Ông nhảy mừng trước Đấng cứu độ ngay từ trong lòng mẹ, khi Đức Maria mang Hài nhi Giêsu đến viếng thăm.

Ông vui vì được làm ngôn sứ cho Đấng Cứu thế, như lời thân phụ Giacaria đã thốt lên: “Hài nhi hỡi! Con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa mở lối cho Người ” (Lc 1, 76).

Ông vui vì như là ngọn đèn, để Đức Giêsu là ánh sáng, được làm tiếng kêu trong sa mạc, để Đức Giêsu là Lời loan báo cho dân chúng, được là người đi trước dọn đường, để Đức Giêsu mang ơn cứu độ đến.

Ông vui vì lời rao giảng của ông được dân chúng lắng nghe, nên họ lũ lượt tìm đến xin ông làm phép rửa, bày tỏ sự sám hối. Để rồi Đấng đến sau ông sẽ rửa dân chúng trong Thánh Thần.

Trong đêm Chúa giáng sinh, đạo binh các thiên thần từ trời xuống hát mừng và loan tin vui cho các chú Mục đồng: “Ta báo cho anh em một tin mừng, cũng là cho toàn dân, đêm nay Đấng cứu độ đã giáng sinh cho chúng ta” (Lc 2, 10).

Như vậy, Đức Giêsu chính là niềm vui mà Thiên Chúa Cha trao ban cho nhân loại. Niềm vui ơn cứu độ, niềm vui của một của một vị Thiên Chúa vì quá xót thương nhân loại, nên đã hạ cố xuống ở trong lòng nhân thế, bởi tên Ngài là Emmanuel. Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Thế thì, thử hỏi chúng ta có cảm nghiệm được niềm vui vì có Chúa ở cùng, ở với chúng ta không?. Vì mỗi khi tham dự Thánh lễ, linh mục chủ tế nhắc đến nhiều lần”Chúa ở cùng anh chị em; bình an của Chúa ở cùng anh chị em”.

Anh chị em thân mến,

Khi được cưu mang niềm vui Giêsu trong lòng, Mẹ Maria không giữ riêng cho mình, nhưng vội vả lên đường mang niềm vui Giêsu đi chia sẻ cho người khác.

Gioan tẩy giả cũng vậy, khi đã nhảy mừng trước ơn Cứu Độ, ông không giữ riêng cho mình, nhưng ra đi loan tin vui rao giảng sự sám hối, chuẩn bị tâm hồn cho dân chúng đón nhận niềm vui  Giêsu.

Các chú Mục đồng khi đến máng cỏ Bêlem gặp thấy Hài Nhi Giêsu, họ trở về tung hô ca ngợi Chúa, về tất cả những gì họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.

Chúng ta cũng vậy, mỗi khi rước lấy Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng, noi gương Mẹ Maria, bắt chước Gioan Tẩy giả và các chú Mục đồng, hãy mang niềm vui Giêsu, đi chia sẻ cho những người chúng ta gặp gỡ, đặc biệt những người chưa nhận biết Chúa.

Xin Chúa giúp chúng ta tiếp tục sống tinh thần sám hối của Mùa Vọng, bằng cách dọn cho Chúa Hài đồng một máng cỏ tâm hồn, được đan kết bằng những cọng rơm của lòng sám hối. Cùng đắp cho Chúa Hài Nhi ấm áp bằng tấm khăn của tinh thần bác ái, hi sinh, và dâng lên Chúa những hương kinh nguyện cầu.

Cầu xin Chúa ban cho chúng ta cảm nghiệm được niềm vui Giêsu ở cùng, ở với chúng ta, và rồi chúng ta cũng biết chia sẻ niềm vui ấy cho người khác như Mẹ Maria, như Gioan tẩy giả. Amen.

 

.

ĐỔI MỚI THỰC SỰ TỪ CHÍNH MÌNH

Lm. Phêrô Lê văn Chính

Chúa nhật tuần này được gọi là Chúa nhật của niềm Vui bởi vì các bài đọc mời gọi thúc đẩy người tín hữu hãy vui lên “anh em hãy vui luôn trong Chúa”. Chủ đề của Chúa nhật này là Vui mừng trong hy vọng. Mùa Vọng là thời gian của vui mừng vì Chúa đến để đổi mới vận mệnh của mỗi người, làm cho chúng ta được trở nên thánh thiện và xứng đáng với Thiên Chúa hơn. Niềm vui của người Kitô hữu không phải vì quà cáp hay của cải dư đầy, nhưng niềm vui của họ là vì có Chúa đến thăm viếng và ở lại với họ, và Chúa làm cho cuộc đời của họ được thay đổi. Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Xôphônia đã loan báo tin vui cho thiếu nữ Sion và mời gọi họ hãy vui lên vì Chúa đến thăm viếng và ở lại với họ, họ không còn phải sợ hãi quân thù nữa. Trước Chúa Giêsu giáng sinh khoảng 600 năm, vào giai đoạn vua Josias đang cố gắng canh tân do thái giáo, tiên tri Xôphônia khuyến khích dân chúng hãy vui lên vì Thiên Chúa đã rút lại lời kết án họ và ban cho họ phần thưởng chiến thắng và nhất là Thiên Chúa ở giữa họ, Thiên Chúa ở với họ. Họ không còn phải sợ hãi nữa. Bài đáp ca diễn tả cùng một niềm vui, tiên tri Isaia mời gọi dân chúng hãy reo vui bởi vì Đấng Thánh của Thiên Chúa đã ở giữa họ. Họ sẽ tin tưởng hành động vì Thiên Chúa là ơn cứu độ của họ. Thư của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Philipphê nhắc nhở họ hãy phát triển và củng cố đời sống đạo đức, họ hãy luôn sống vui tươi và tỏ ra ôn hòa đại lượng với mọi người, lý do là vì Chúa gần đến. Cộng đoàn Philipphê là cộng đoàn mà thánh Phaolô rất yêu mến, bởi vì đây là cộng đoàn mà ngài đã thành lập trên phần đất Âu châu, trong tỉnh Macêđônia. Thánh Phaolô nhắc nhở mọi người rằng chính Chúa Giêsu là động lực và bảo đảm của niềm vui của họ,  và họ diễn tả niềm vui bằng đời sống tử tế với mọi người và nhất là dâng lời cầu nguyện tạ ơn và khẩn cầu Thiên Chúa luôn trong mọi sự để cho lòng của họ luôn được bình an.

Tin mừng trình bày hoạt động rao giảng của Gioan tẩy giả, ông thúc đẩy mọi người chuẩn bị tâm hồn để đón đấng cứu thế đang đến, kêu gọi mọi người thay đổi cách sống để xứng đáng với đấng cứu thế đến khai mạc triều đại nước Thiên Chúa. Theo nguyên tự thống hối metanoia có nghĩa là thay đổi lòng trí, một thay đổi đời sống cách triệt để bao gồm hai mặt là xa lánh tội lỗi và trở về với Thiên Chúa. Việc thống hối này đòi hỏi phải cụ thể như là bằng chứng của lòng thống hối, vì thế Gioan nói với đám đông và ngỏ lời với từng giới như những người lính, hoặc những người thu thuế, mỗi hạng người đều có những mục tiêu thống hối cụ thể phù hợp với nghề nghiệp của họ. Cách chung, Gioan đòi hỏi mọi người phải biết chia sẻ của cải của mình, thức ăn và áo mặc cho người túng thiếu. Đồng thới mỗi người được mời gọi chu toàn tốt đẹp công việc bổn phận của mình, người thu thuế chu toàn công việc bổn phận của người thu thuế, đừng đòi hỏi quá mức ấn định, người lính cũng phải chu toàn bổn phận của người lính, không hà hiếp dân chúng.

Lời rao giảng của Gioan tẩy giả đánh động dân chúng sâu xa đến độ  họ hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì”. Dầu vậy, ông không thúc đẩy mọi người từ bỏ mọi sự để sống khắc khổ nơi hoang địa như ông, nhưng mời gọi họ thay đổi chính đời sống của mình trong môi trường và nghề nghiệp của mỗi người để chứng tỏ sự thống hối chân thực. Có điều ông nhắc nhở mọi người đừng ảo tưởng về một sự an toàn giả tạo do mình được cắt bì hay thuộc dòng giống Abraham. Câu trả lời của Gioan cho mọi người rất hiện thực, ông không nhấn mạnh mọi người phải dâng hy lễ để đền tội hay phải ăn chay hãm mình nhưng lại xoáy vào chiều kích công bằng xã hội cụ thể trong tương quan với những người khác: giúp đỡ và chia sẽ cho những người túng thiếu, sống ngay thẳng công bằng trong nghề nghiệp không lợi dụng để bóc lột hay bắt chẹt người khác. Đây cũng là những đòi hỏi phát xuất từ những yêu cầu thiết yếu của Lề luật Môisen. Sứ điệp của Gioan không nhắm đến những cải cách thay đổi xã hội, nhưng mời gọi mỗi người phải biết thay đổi từ chính mình. Đoạn kết của bài Tin mừng là câu hỏi mọi người đặt ra về Gioan: “Có phải ông là Đức Kitô không?” Và Gioan đã trả lời thẳng thắn cho mọi người: “Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Ðấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, – tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, – chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!”. Gioan đã phân biệt cho mọi người biết phép rửa mà ông thực hành cho mọi người chỉ là phép rửa bằng nước, chỉ là hình bóng tạm thời của một thực tại trọn vẹn hơn là phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa mà Đấng sẽ đến sẽ thực hiện và ông cũng như mọi người phải hướng về. Gioan cũng nói rõ cho mọi người biết ông chỉ là người loan báo cho Đấng sẽ đến và sánh với người thì ông chỉ là một con người tầm thường và bất xứng: “Tôi không đáng cởi dây giày cho người”.

Niềm vui của người tín hữu là niềm vui sâu xa, niềm vui của một sự đổi mới thực sự và nội tâm hướng về Đấng Cứu thế đang đến với mọi người. Không phải những món quà bên ngoài làm cho con người thay đổi mà chính mỗi người phải cố gắng tự đổi mới chính mình khi chu toàn những công việc bổn phận và nghề nghiệp của mình. Người ta không phải đi tìm một sự đổi mới ở đâu xa xôi hơn là chính nơi bản thân mình, đổi mới tương quan với những người khác, như lời thúc đẩy của thánh Phaolô, sao cho mọi người thấy được đức ôn hòa của anh em. Đời sống liên lĩ cầu nguyện cũng là một yếu tố thiết yếu của sự đổi mới này, bởi vì người tín hữu cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh, dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện cảm tạ và trình bày mọi ước vọng và họ sẽ xứng đáng lãnh nhận bình an của Thiên Chúa gìn giữ lòng trí của họ luôn được kết hợp với Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa đến và ở với mỗi người.

 

.

NIỀM VUI CỨU ĐỘ

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Chúa Nhật III Mùa Vọng được Giáo Hội gọi là “Domenica Gaudete,” Chúa Nhật của niềm vui; hay Chúa Nhật hồng giữa mùa tím. Quả thế, phụng vụ Lời Chúa hôm nay lặp đi lặp lại lời mời gọi: “Hãy vui lên, hãy hân hoan, hãy nhảy mừng.” Đây là sứ điệp căn bản của Tin Mừng, mời gọi mỗi Kitô hữu vui lên vì Chúa sắp đến; vui lên vì ơn cứu độ mà Chúa sắp thực hiện; vui lên vì Người là Đấng Cứu Độ chúng ta.

1- Niềm vui Chúa đến

Trong bài đọc I, ngôn sứ Xôphônia mời gọi dân Chúa: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy nức lòng phấn khởi…” (Xp 3,14). Ngôn sứ giải thích những lý do khiến dân Israel phải vui mừng, bởi vì Thiên Chúa sẽ đến ngự giữa họ; Người là Đấng quyền năng và yêu thương; Người lấy tình thương mà đổi mới họ; Người vui niềm vui của dân Người (x. Xp 3,14-18a).

Lời loan báo về niềm vui này chỉ được thực hiện một cách cụ thể và viên mãn qua biến cố nhập thể của Con Thiên Chúa khi tổng lãnh thiên thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria, thiếu nữ Xion mới: “Hỡi Trinh Nữ, hãy vui lên!” (Lc 1,28). Nhờ tiếng xin vâng của Đức Maria, Thiên Chúa đến với loài người, trở thành một con người để cứu độ mọi người. Bởi thế, khi Chúa Giêsu sinh ra, thiên thần loan báo với các mục đồng: “Này đây tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2,10-11).

Vì thế, trong bài đọc II, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu Kitô ở thành Philiphê: “Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Ước gì sự hòa nhã của anh chị em được mọi người biết đến. Chúa đang gần kề!” (Pl 4,4-5).

Tắt một lời, toàn bộ cuốn Kinh Thánh diễn tả sứ điệp niềm vui này: Thiên Chúa đến viếng thăm và cứu độ dân Người qua biến cố nhập thể làm người của Con Thiên Chúa.

2- Niềm vui cứu độ

Thế nhưng, niềm vui mà Chúa Giêsu mang đến không chỉ là một tình cảm, cảm xúc chóng qua, cũng không phải là những niềm vui mà thế gian ban tặng, nhưng là niềm vui cứu độ, bền vững, đích thực cho tâm hồn con người. Thiên Chúa chính là niềm vui đích thực của con người. Niềm vui đó được biểu lộ và ban tặng qua Đức Kitô. Bởi vậy, ai gặp gỡ Chúa Kitô, người đó sẽ có niềm vui trong tâm hồn; ai được Chúa Kitô cứu độ, người đó sẽ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi, đau khổ và buồn rầu; ai có niềm vui của Chúa Kitô, người đó sẽ biết sống yêu thương và chia sẻ với tha nhân. Niềm vui đó mang lại cho chúng ta bình an và sức mạnh, để có thể đứng vững trước những gian nan thử thách, hay những bất ổn và biến động xảy ra trong cuộc đời.

Chính vì thế, người Kitô hữu phải là người của niềm vui. Nếu một người Kitô hữu mà luôn sống với một khuôn mặt “đưa đám,” hay chỉ có sống tinh thần Mùa Chay mà không có tinh thần Mùa Phục Sinh, thì chưa thực sự là môn đệ Đức Kitô. Một người Kitô hữu mà sống bi quan chán nản, thất vọng buông xuôi, ấy là dấu hiệu của một Đức Tin hời hợt và xa lạ với Tin Mừng. Nên người ta thường nói: một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn! Sống vui tươi là nét đặc trưng của người Kitô hữu vì sống vui là sống thánh thiện. Chúng ta cần cảm nghiệm, chia sẻ và làm chứng niềm vui đó cho mọi người.

3- Niềm vui hoán cải

Để có được niềm vui trong Chúa, điều căn bản là phải có sự hoán cải. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện hoán cải thật tuyệt vời mà Gioan Tẩy Giả đề nghị cho dân chúng thực hiện. Sau khi nghe lời kêu gọi sám hối của ông, nhiều người muốn phục thiện, sẵn sàng thay đổi nếp sống sai lạc của mình. Nhiều người đến xin Gioan những lời khuyên thiết thực: “Chúng tôi phải làm gì đây?” Tùy từng người một mà Gioan khuyên bảo:
– Đối với dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy.”
– Đối với người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi.”
– Đối với các quân nhân: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình” (x. Lc 3,10-18).

Gioan không có ý khuyên người ta phải bỏ việc đang làm, nhưng ông dạy họ phải làm việc thật tốt, đúng với trách nhiệm họ đã lãnh nhận. Câu trả lời của Gioan cho mỗi hạng người có hành động khác nhau, nhưng tựu trung lại, tất cả đều phải hoán cải.

Cũng thế, để có niềm vui đích thực và bền vững, mỗi người chúng ta phải có sự hoán cải. Hoán cải là điều kiện để chúng ta đón nhận niềm vui ơn cứu độ. Hoán cải là thay đổi cách suy nghĩ, lối sống và hành động của chúng ta cho phù hợp với các giá trị của Tin Mừng. Việc hoán cải cũng bao gồm việc thực thi công bằng, bác ái và sống lương thiện đối với tha nhân.

Lễ Giáng Sinh là lễ tình yêu Thiên Chúa nhập thể, đang đến gần. Niềm vui Giáng Sinh của người Kitô hữu gắn liền với thái độ sống thức tỉnh và hoán cải để canh tân đời sống. Niềm vui của người Kitô hữu chính là sự kết hợp với Đức Kitô, gắn bó mật thiết với Người. Từ đó, chúng ta lan tỏa niềm vui nội tâm này trong đời sống hằng ngày bằng việc chu toàn bổn phận và sống yêu thương phục vụ mọi người.

Lạy Chúa, Chúa đến mang niềm vui và ơn cứu độ cho chúng con. Xin cho mỗi người chúng con, luôn cảm nghiệm được niềm vui vì có Chúa đồng hành. Và xin Chúa cho chúng con biết lan tỏa niềm vui ấy tới những người xung quanh bằng việc sống bác ái và yêu thương mọi người chúng con gặp gỡ. Amen!

 

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG_C

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Kính thưa anh chị em,

Các bản văn Phụng vụ hôm nay nói nhiều đến niềm vui. Nhưng tại sao lại vui như vậy? Thưa vì Chúa sắp đến. Cha Gutzwiller một nhà chú giải Kinh Thánh nổi tiếng có viết một câu rất đơn sơ nhưng ý nghĩa rất đẹp: Gặp được Chúa là gặp được niềm vui. Và trong bài Tin Mừng hôm nay Gioan Tẩy Giả sẽ chỉ cho chúng ta cách để chúng ta có thể có được niềm vui của Chúa.

A. Như anh chị em đã thấy, khi Gioan xuất hiện ở bên bờ sông Giorđanô để rao giảng thì có rất nhiều người tuốn đến với ông. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy trước mặt ông là cả một đám rất đông quần chúng. Đây là thành phần được Gioan Tẩy Giả dành cho những tình cảm đặc biệt. Ngoài ra, ta còn thấy có hai nhóm nhỏ hơi đặc biệt một chút. Đó là những người thu thuế và một số lính tráng, những thành phần không mấy được ưa chuộng, thậm chí còn bị liệt vào số những người tội lỗi cần phải tẩy chay. Nhưng tất cả đều cảm thấy có một khát vọng phải làm một cái gì đó sau khi được nghe những điều Gioan nói. Họ thành khẩn xin Gioan Tẩy Giả chỉ cho họ và Gioan đã không phụ lòng họ.

  1. Đầu tiên là đám đông quần chúng Họ cảm thấy bị lay động một cách mạnh mẽ trước những lời Gioan giảng. Họ cảm thấy  phải làm một cái gì đó như Gioan mong đợi.
  2. Tiếp đến là những người lính.
  3. Cuối cùng là những người thu thuế. Đây là giai cấp bị người Do Thái ghét cay ghét đắng và luôn tìm cách xa lánh.

B. Bây giờ chúng ta hãy nghe Gioan Tẩy Giả khuyên dạy.

Để được hiểu rõ hơn những lời Gioan Tẩy Giả nói, ta phải lưu ý một vài chi tiết này.

a- Trước hết ta thấy Gioan có đầu óc. Ông biết những gì cần phải nói và nói những việc có thể làm được.

Gioan cũng là người rất thực tế. Ông hiểu cuộc sống của từng lớp người. Ông hiểu những gì người ta có thể làm được. Ông không đòi hỏi những điều trên mây trên gió. Ông thấy được mỗi người cần phải làm gì trong chính hoàn cảnh cụ thể của mình. Đòi hỏi một điều mà người ta không thể thi hành được thì chẳng khác gì làm một việc vô ích.

b- Bây giờ chúng ta đi vào một vài chi tiết. Tin Mừng hôm nay ghi lại.

+ Với đám đông: Ông đòi hỏi họ phải biết chia sẻ. Họ phải thực hiện Bác ái. “Ai có hai áo, hãy cho người không có. Ai có  của ăn cũng hãy làm như vậy”(Lc 3,11)

+ Với những người thu thuế ông bảo họ: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức ấn định cho các ngươi”(Lc 3,13)

+ Với những người lính thì ông lại khuyên khác: “Đừng ức hiếp ai. Đừng cáo gian ai. Hãy bằng lòng với số lương của mình”(Lc 3,14)

c- Qua những lời nói trên chúng ta thấy Gioan xứng đáng là một bậc thầy. Rất khôn khéo và cũng rất tế nhị. Không gay gắt trong ngôn từ nhưng rất quả quyết và rỏ ràng trong hành động.

+ Với những người vốn đã có một đời sống tốt đẹp như đa số đám đông quần chúng là những người đã được luật Công Bình của Cựu Ước giáo dục và chỉ dẫn, thì ông khuyên họ hãy đưa cuộc sống họ lên cao hơn một bậc nữa. Đó là cuộc sống Bác ái. Đây là cuộc sống lý tưởng mà chính Chúa Giêsu sau này cũng đòi hỏi như thế.

+ Nhưng đối với những người mà hai tiếng Công Bình còn quá xa lạ với họ như những người lính và những người thu thuế lời khuyên của Gioan hơi khác. Ông không đòi hỏi những người thu thuế phải đoạn tuyệt với người Roma mà họ đang cộng tác. Ông cũng không đòi hỏi những người lính đang phục vụ trong đạo binh của Hêrođê phải đào ngũ. Họ cứ việc giữ nguyên nghề nghiệp của họ. Thế nhưng vì họ xin ông chỉ cho họ cách họ phải làm gì thì chúng ta thấy Gioan cũng chỉ đòi hỏi họ phải đưa cuộc sống của họ lên cao hơn một bậc. Ông đề nghị với họ hãy từ bỏ những cách cư xử thiếu Công bằng: “đừng đòi gì quá mức ấn định – đừng cáo gian ai – đừng ức hiếp ai”. Đòi hỏi quá mức – cáo gian – ức hiếp người khác – Cách cư xử đó chẳng khác gì cách cư xử của muôn loài cầm thú. Cư xủ như thế là cư xử theo luật rừng. Gioan khuyên họ hãy biết sống Công bằng đối với nhau: “Hãy bằng lòng với số lương đã được ấn định cho các người”

Đó là những lời khuyên rất cụ thể và thực tế cho những người đến xin ông chỉ dẫn. Còn đối với cá nhân của Ông thì sao?

C. Khi người ta hỏi ông về vai trò của mình, ông đã trả lời một cách rất sòng phẳng và thành thật. Ở điểm này thì chúng ta phải cảm phục sự thành thật của ông. Ông không lạm dụng lòng tin của quần chúng. Giữa lúc mọi người tin rằng ông chính là Đấng Kitô, Đấng phải đến thì ông lại bảo: Ông không phải là đấng đó. Đúng là một con người ngay thẳng. Có sao thì nói vậy. Có gì thì nhận nấy. Một lời cũng không thêm, nửa chữ cũng không bớt. Khó mà tìm được một con người như thế nhất là trong xã hội nghèo khó, dầy giai cấp của người Do thái lúc đó.

Ông cũng là một con người rất khiêm nhường. Ông tự ví mình như một người không xứng đáng dù là chỉ cúi xuống cởi dây dép cho Chúa.

Vâng! Ông thành thực, ông khiêm nhường. Ông không muốn gì cho ông. Điều mà ông muốn đó là làm cho người ta nhận ra Đức Kitô. Chính Ngài mới thật là Đấng có uy quyền. Ngài mới là Đấng rửa trong Thánh Thần. Gioan chỉ rửa bằng nước. Ngài mới là Đấng đến để thánh hóa những kể thống hôí ăn năn và trừng phạt những kẻ cứng lòng.

Như vậy Gioan cũng như Sophonia, các ngài chỉ là những ngôn sứ. Các ngài là những người chỉ đóng vai trò loan báo và dọn đường. Chúa Cứu thế mới là Đấng phải đến và đã đến như lời của các ông loan báo. Ngài đến để thực hiện lời hứa cứu độ cho cả loài người. Người là Tình yêu. Ai gặp được Ngài là gặp được niềm vui.

Cha John Diamond kể lại một câu truyện như sau:

Một hôm kia có một người chẳng ưa gì đạo hỏi một cô bé có đạo:

– Em có thể cho tôi biết Thiên Chúa của em ở đâu không?

+ Xin ông vui lòng chỉ cho cháu biết chỗ nào không có Thiên Chúa!

– Thế Thiên Chúa của em có to lớn không?

+ Dạ có.

– Thế Thiên Chúa của em có nhỏ không?

+ Dạ có

– Làm sao mà lại vừa lớn vừa nhỏ như thế được?

– Vâng Ngài lớn đến nỗi cả bầu trời không chứa nổi. Nhưng lại nhỏ, nhỏ đến mức có thể ngự vào tâm hồn nhỏ bé của em.

Kính thưa anh chị em

Chúng ta sắp sửa lại mừng lễ Giáng Sinh của Chúa. Đây không phải chỉ là một việc làm ôn lại quá khứ mà là sống lại một biến cố trọng đại: Biến cố Thiên Chúa đã làm người vì chúng ta. Sự việc Ngài làm người quả đã làm cho mối tương quan giữa Ngài với con người hoàn toàn được đổi mới.

Một Thiên Chúa uy quyền cả bầu trời không chứa nổi nhưng lại có thể đến ngự ở trong mỗi tâm hồn nếu chính con người biết mở cõi lòng đón nhận. Nhưng làm sao để cho chúng ta có thể có được Ngài? Lời của Gioan Tẩy Giả nói với dân chúng, nói với những người thu thuế và lính tráng cũng chính là những lời Chúa muốn mượn miệng lưỡi của Gioan mà nói với chúng ta. Không phải thay đổi nghề nghiệp, cũng không phải thay đổi hoàn cảnh mà là phải thay đổi cách sống…sống sao cho Công Bằng, cho Bác ái. Được như thế chúng ta sẽ xứng đáng với sự Giáng Sinh của Chúa, không cần phải bằng một con người xương thịt như thuở xưa, nhưng bằng Thánh Thần và ơn Thánh Hóa để chúng ta được sống một cuộc sống xứng đáng hơn, làm con người và làm con Thiên Chúa. Amen.

 

.

CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?-

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP. 

Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật Mầu Hồng vì Ca nhập lễ  bắt đầu bằng lời kêu gọi “Hãy vui lên” của thánh Phaolô. Bài đọc 1 và 2  hôm nay làm sáng lên niềm vui và hy vọng. Mầu hồng là mầu diễn tả niềm vui thay vì mầu tím, mầu của tình trạng chưa được thỏa mãn. Có tất cả những điều ấy vì ngày Chúa đến đã gần kề. Ngày hôm nay là cơ hội thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về niềm vui của đời Kitô hữu, của những người có Tin mừng cứu độ của Thiên Chúa.

Tuy  nhiên, chúng ta chỉ có được niềm vui thực sự khi tâm hồn chúng ta đã được chuẩn bị sẵn sàng cho việc Chúa đến. Nói cách khác, trong khi chờ đợi Chúa đến, chúng ta phải làm gì một cách cụ thể ? Thánh Gioan đã trả lời cho chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay.

Một cách tổng quát, thánh Goan bảo mọi người phải thực thi công bằng và bác ái trong khi chờ đợi Chúa đến. Nhưng cách riêng đối với từng hạng người thì Gioan đã cho những chỉ dẫn khác nhau :

– Đối với dân chúng : hãy biết chia sẻ cho người khác.

– Đối với người thu thuế, hãy thực thi đức công bằng.

– Đối với quân nhân : đừng hà hiếp dân chúng.

Họ không cần thay đổi nghề nghiệp mà chỉ cần sống cho lương thiện.

Ngoài ra, để đánh tan dư luận cho ngài là Đấng Messia thì Gioan đã khiêm tốn loan báo cho họ biết Đấng Messia sẽ đến, Ngài cao trọng hơn ông, đến nỗi ông không xứng đáng cởi quai dép cho Ngài.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. 

+  Bài đọc 1 : Xp 3, 14-18.

Tiên tri Xophônia, là người đồng thời với tiên tri Giêrêmia, đi rao giảng vào cuối thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, thời ấu vương Giosias (640-630) vào những năm trước cuộc phục hưng tôn giáo do nhà vua phát động.

Trong hoàn cảnh đó, nước Do thái đang ở trong tình trạng tồi tệ : bên trong thì đạo đức suy đồi, bên ngoài thì họa xâm lăng đang rình rập. Tuy thế,  tiên tri Xophônia  vẫn loan báo tin vui cho dân chúng “Aùn lệnh của ngươi Thiên Chúa đã rút lại, và thù địch của ngươi Ngài đã đẩy xa” vì thế “hãy reo lên hỡi thiếu nữ Sion. Hoan hô đi nào, hỡi Israel ! Mừng vui  lên, hỡi thiếu nữ Giêrusalem… Bởi đã đến ngày Thiên Chúa đến ban ơn cứu độ và ngự giữa dân Ngài”. 

+  Bài đọc 2 : Pl 4,4-7.

Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Philipphê hãy vui lên trong niềm vui của Thiên Chúa bởi vì Chúa sắp đến với ơn bình an của Ngài :”Anh em hãy vui lên trong Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa : anh em hãy vui lên”(Pl 4,4).  

Niềm vui này sẽ đến với chúng ta nếu chúng ta biết sống hiền hòa rộng rãi với mọi người và biết sống phó thác cho Chúa trong lời cầu nguyện. Không phải lo lắng gì cả, có gì cứ trình bầy với Chúa.

+  Bài Tin mừng : Lc 3,10-18.

Nghe Gioan rao giảng, người ta nô nức đến sông Giorđan chịu phép rửa để xin ơn tha tội. Họ tỏ lòng sám hối để đón chờ Chúa đến. Nhưng để dọn đường cho Chúa đến, dân chúng chưa biết phải làm gì và làm thế nào, nên họ hỏi ông:”Chúng tôi phải làm gì” ?

Để giúp các thành phần trong dân Chúa dọn lòng đón tiếp Đấng Messia, Gioan Tẩy giả đã đề nghị một cách tổng quát : Hãy sống công bình và bác ái.  Ôâng không  bảo họ phải bỏ nghề nghiệp của mình mà hãy sống tốt cho phù hợp với hoàn cảnh của từng hạng người :

– Đối với người dân : hãy chia sớt cho ai không có.

– Đối với người thu thuế : hãy sống công bằng.

– Đối với quân nhân : đừng hà hiếp dân.

Thấy dân chúng tôn vinh mình, tưởng mình là Đấng Messia, Gioan đã khiêm tốn phủ nhận dư luận ấy, và giới thiệu Đấng Messia thật cho họ biết :”Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài”.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Tôi phải làm gì đây.

I. ẢNH HƯỞNG CỦA LỜI KÊU GỌI

  1. Gioan rao giảng việc sám hối.

Trong tuần lễ trước, thánh Gioan đã xuất hiện tại sa mạc Giorđan rao giảng kêu gọi mọi người chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Ôâng đã lặp lại lời tiên tri Isaia cách đó 500 năm, vạch ra con đường để dân chúng theo :”Có tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

Lời kêu gọi đó đã được nhiều người chấp nhận, trong số những người đã chịu phép rửa ở sống Giorđan có cả những người thu thuế và quân nhân. Dĩ nhiên cũng có người tò mò đến xem hoặc đến nghe mà cứng lòng không hối cải như những người biệt phái và luật sĩ. Đối với những ngưới ấy, Gioan đã răn đe,  báo trước cho họ hình phạt sẽ hòng đổ xuống đầu như chiếc rìu đã đặt sẵn vào gốc cây.

  1. Ý thức và nhận mình là người có tội. 

Muốn sửa đổi con người của mình, muốn tiến triển trên con đường nhân đức, đều cần thiết là phải biết mình. Người ta thường mắc khuyết điểm nay vì :”Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê” : việc người thì sáng, việc mình thì quáng. Nhiều khi con người bị tính tự ái hay tình tư dục làm mờ ám lương tri, không còn nhìn ra chân lý, không biết thực trạng con người mình, nên nhiều khi cần có người thức tỉnh.

Truyện : Anh là người có tội.

Cách đây ít lâu, bác sĩ Karl  Menninger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ đã làm nhiều người kinh ngạc với quyển sách của ông mang tựa đề “Whatever became of sins”(điều gì đang xẩy đến cho tội lỗi). Ôâng bắt đầu quyển sách bằng một câu chuyện trào lộng khiến chúng ta phải suy nghĩ.  Vào một ngày chúa nhật tháng 9 năm 1972, trên góc phố đông người qua lại thuộc khu trung tâm Chicago, xuất hiện một nhà chuyên giảùng thuyết ở đường phố. Đang lúc các nhân viên văn phòng vội vã lo đi ăn trưa,  nhà giảng thuyết này thình lình giương cánh tay phải lên, dùng cánh tay xương xẩu chỉ vào một nhân viên nào đó rồi la lên:”Anh là kẻ có tội”! Đoạn ông đứng im, nghỉ vài giây rồi lại bắt đầu  chỉ vào một nhân viên khác rồi la lên:”Anh là kẻ có tội”!

Bác sĩ Menninger nói:”Tác động mà nhà giảng thuyết gây ra  nơi những người bộ hành đi ngang qua đó thật là kỳ lạ”. Họ lấm lét nhìn ông, rồi lại quay mặt đi chỗ khác, rồi lại lén nhìn nữa, và cuối cùng vội vàng đi tiếp (M. Link).

Chắc chắn Gioan Tẩy giả cũng gây được tác động tương tự trên đám dân khi ngài xuất hiện ở bờ sông Giorđan. Ngài cũng như nhà giảng thuyết đã chạm vào nơi vùng  thâm sâu dễ thương tổn nhất của dân chúng. Ngài đòi buộc dân chúng xét lại tâm hồn mình và nhận biết lỗi lầm của mình. Ngài còn đòi hỏi họ phải từ bỏ tội lỗi để quay về cùng Thiên Chúa.

  1. Chờ đợi Đấng Cứu thế.

Kẻ học biết Kinh thánh và những luật sĩ  chỉ lo nghiền ngẫm những lời tiên tri loan báo : Đấng Cứu thế sắp đến là :”Vua được xức dầu. Ngài đến trong dòng dõi Giuđa. Ngài chiến thắng quân thù, giết những vua chúa ngoại bang… Đấng xức dầu sẽ tụ họp dân Ngài trong đường công chính, cai trị các quốc gia, loại trừ mọi bất công và gian ác. Phúc cho ai được sống trong thời đại ấy” Họ nghiền ngẫm những lời ấy và suy đoán sắp đến ngày Đấng Cứu thế xuất hiện và ai ai cũng đều cầu xin Ngài đến.

Giờ đây họ được nghe loan báo Ngài đang đến. Thế là như cá gặp nước, như người chết đuối vớ được phao cứu, dân chúng đổ xô đến với Gioan và hỏi:”Chúng tôi phải làm gì để đón rước Đấng Cứu thế” (Vũ khắc Nghiêm).

II. CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ ?

  1. Những hướng dẫn cụ thể

Sau khi được nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy giả, dân chúng nôn nóng muốn thực hành ngay những điều ông dạy, nhưng những lời rao giảng ấy còn khó hiểu với những người phần lớn là thôn quê, đơn sơ chất phác. Họ muốn những lời dạy cụ thể hơn. Những việc mà Gioan muốn cho họ thực hiện chung qui  là “Công bằng và Bác ái”. Tùy từng hạng người  mà ông cho những hướng dẫn cụ thể.

a) Đối với dân chúng.

Đám dân đến nghe Gioan rao giảng đều là những người bình dân, cho nên lời rao giảng của ông là rõ ràng, chính xác  và cần thực hiện ngay không được chậm trễ. Nó không có gì thuộc phạm vi trí thức hay khó hiểu cả, chính trong cái bình thường nhất hay tầm thường nhất của cuộc sống hằng ngày (ăn, mặc…) mà sự hoán cải qua thân xác, sự quay lại của tâm hồn gọi là “metanoia” cần được thực hiện. Nên Gioan đã trả lời :”Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. 

b) Đối với người thu thuế và quân nhân (cảnh sát). 

Trong đám đông dân chúng đến chịu phép rửa, người ta nhận thấy có cả người thu thuế và cảnh sát. Đó là những người bị người ta ghét nhất thời đó, là những người ít tư cách nhất để đón tiếp Đức Giêsu, những người sống ngoài lề xã hội và bị khinh bỉ, những người tội lỗi nhất, những hạng người “đểu cáng”.

Những người thu thuế cũng thành thực hỏi ông:”Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì” ? Ông trả lời cho họ :”Đừng hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”. Binh lính cũng hỏi ông :”Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì”? Ôâng bảo họ :”Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”

Ở đây chúng ta nhận ra rằng Tin mừng theo thánh Luca sẽ cho chúng ta thấy Đức Giêsu”dùng bữa nơi nhà người tội lỗi”(Lc 5,27-30). Làm cho những  người công chính rất bất bình với Đức Giêsu,”ngụ tại nhà người tội lỗi”(Cl 19,7) làm cho những người “đàng hoàng” phải bực bội. Đức Giêsu nói rằng Ngài đến không phải vì những người công chính (Lc 5,32).

  1. Không đổi nghề nhưng đổi cung cách hành xử.

Thánh Phaolô không bảo họ phải lên rừng, vào hoang địa đi tu như Ngài. Không bảo người ta phải sống khắc khổ, ăn châu chấu và mật ong rừng, mặc áo nhặm da thú như ngài. Nhưng đối với đại đa số dân chúng, ngài chỉ bảo họ sống yêu thươug, hãy thực thi bác ái.

Còn đối với những người thu thuế và cảnh sát của quân đội chiếm đóng, Gioan Tẩy giả không yêu cầu họ đổi nghề, nhưng chỉ cần có cung cách sống mới : tôn trọng công lý, không lạm dụng sức mạnh mình có trong tay, bằng lòng với những gì mà quyền lợi và luật pháp đã quy định. Tất cả những lời khuyên trên đây thuộc lãnh vực nghề nghiệp. Chúng nhằm đến những tội lỗi, mà người thu thuế và binh lính thời ấy  thường hay vấp phạm : làm giầu bằng cách lợi dụng tư thế bất khả xâm phạm do nghề nghiệp của mình. Lợi dụng thế mạnh nhất của mình đang nắm giữ (Quesson).

Lao động là việc cần thiết và có lợi cho đời sống vật chất cũng như tinh thần. Nói đến lao động là nói đến nghề nghiệp. Hiện nay bên Mỹ người ta đếm được 23.559 cách làm ăn để sinh sống. Tựu trung tất cả các nghề làm ăn sinh sống đều qui về hai loại lao động là trí óc và chân tay. Nghề nào cũng tốt, không có nghề nào xấu, chỉ có người xấu như ngạn ngữ Pháp đã nói:”Il n’y a pas un sot métier” : không có nghề nào xấu cả. Chúng ta cứ tiếp tục nghề nghiệp hiện tại của mình một cách lương thiện.

Những lời khuyên của Gioan ở trên thích nghi với địa vị của mỗi người. Ôâng không đòi buộc người ta  tách lìa khỏi thế gian hoặc phải từ bỏ các nghề nghiệp. Ông chỉ đòi hỏi lòng nhân hậu và đức công bình, đó là những hoa trái biểu lộ lòng sám hối đích thực trong lúc chời đợi Đấng Cứu thế.. Giáo huấn của Gioan vì thế có tính cách chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt hơn của Đức Giêsu (Lc 6,29.32-36; Mt 5,39-48).

  1. Kết quả của việc sám hối.

Nếu mọi người biết thực thi lời Gioan khuyên nhủ, chắc chắn niềm vui sẽ đến với mọi người vì tâm hồn mình đang sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Lời thánh Phaolô tông đồ trong bài đọc 2 hôm nay phải rộn vang trong lòng mọi người đón chờ Chúa đến:”Anh em hãy vui lên trong Chúa. Tôi nhắc lại một lần nữa : Anh em hãy vui lên”(Pl 4,4).

Tác giả Chesterton đã viết:”Niềm vui là bí mật to lớn của người Kitô hữu”. Quả đúng như thế, bởi vì Kitô hữu là người đã được Thiên Chúa mạc khải, được Ngài hướng dẫn  đưa vào trong những kế hoạch huyền nhiệm của Ngài liên quan đến tương lai của nhân loại, cũng như những phương thế để thực hiện tương lai này. Ngoại trừ tội lỗi, không một thứ gì có thể làm cho người Kitô hữu phải buồn phiền : họ vui vì họ đã đặt mọi niềm hy vọng nơi Thiên Chúa; họ luôn luôn vui. Bởi vì Chúa Thánh Thần là Đấng dưỡng nuôi niềm vui của họ.

Để cho niềm vui được chan hòa trong lòng, người Kitô hữu cần biết chia sẻ niềm vui; bởi vì tâm hồn càng triển nở và dồi dào sức sống, nếu nó biết trao hiến, biết tận tình phục vụ. Đây không phải là một tình huynh đệ giả tạo, mà là sự khả ái, sự an nhiên giúp chúng ta có thể thấu hiểu mọi sự, mà không thiếu sự cương quyết; có thể sống an nhiên, mà không vì thế trốn tránh các khó khăn của cuộc đời.

Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu :”Hãy vui cùng kẻ vui, hãy khóc cùng kẻ khóc”. Sở dĩ Ngài khuyên các tín hữu như vậy là vì con người hay ích kỷ, chỉ biết vơ mọi cái vào cho mình, mình là trung tâm của vũ trụ, còn thì sống chết mặc bay. Cho nên biết chia sẻ niềm vui cho người khác cũng là thực thi bác ái và nó đòi phải hy sinh, hy sinh phải ra khỏi cái ốc đảo của mình để chú ý đến người khác. Người ta nói:”Niềm vui mà được chia sẻ thì tăng lên gấp bội, và nỗi buồn mà được chia sẻ thì sẽ giảm đi được một nửa”. Như vậy thì ai mà không muốn được chia sẻ ?

Sự vui tươi không ở trong cảnh vật mà chỉ có ở trong lòng người : ta vui thì cảnh vật vui, ta buồn thì cảnh vật sẽ buồn. Cảnh vật bên ngoài chỉ là bức họa phản chiếu tâm hồn từng người. Đúng như thi sĩ Nguyễn Du đã nói trong truyện Kiều :

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. 

Một người đã có Chúa trong mình thì bao giờ cũng vui tươi mặc dầu sống trong cảnh đau khổ.  Không gì có thể làm cho họ buồn vì thánh vịnh 42 đã chứng minh :”Introibo ad altare Dei, ad Deum qui laetificat juventutem meam” : Tôi sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Đấng làm cho tuổi xuân tôi được mừng vui”(Tv 42,4).

Truyện : Vui buồn ở tại lòng người.

Buổi sáng ở trạm xăng ngoại ô San Francisco. Một người ngồi xe hơi đến :

– Xin cho hỏi thăm ông chủ một chuyện. Hai tuần lễ vừa qua, tôi nghỉ mát tại Santa Cruz. Thật hứng thú. Phong cảnh ở đó đẹp. Dân ở đó dễ thương. Còn về Redwood Highway, ông chủ có ý kiến gì không ?

Ông chủ cây xăng hớn hở trả lời :

– Ở Redwood-Highway dân cũng dễ mến lắm.

Chưa đầy một tiếng đồng hồ sau, một người khác cũng muốn biết về nơi nghỉ mát này. Chàng nhăn nhó nói :

– Vừa rồi, tôi đã uổng mất hai tuần nghỉ mát. Chỉ thấy bực mình. Phòng ngủ thì thiếu tiện nghi. Dân ở đó dễ ghét.

Ôâng chủ rầu rầu đáp :

– Miền Redwood-Highway cũng chẳng hơn gì.

Khách đi rồi, người ta mới hỏi ông :

– Tại sao thay đổi ý kiến chóng như vậy ?

Ôâng nói :

– Đâu có. Tôi chỉ nhận xét rằng hai ông khách kia mỗi người theo đuổi một cảm nghĩ, không ai muốn thay đổi. Ôâng thứ nhất yêu những người đã gặp, và thích phong cảnh đã được xem. Vậy chắc là đi tới nơi nào ông cũng thích cũng yêu nơi đó. Còn người thứ nhì thì khó tính, hay càu nhàu. Vậy tôi nghĩ rằng đi tới đâu, ông ta bất mãn nơi đó.

(Vũ minh Nghiễm, Sống sống,  tr 210-212)

Trong tuần lễ này, chúng ta phải năng hỏi Chúa:”Lạy Chúa, con phải làm gì”? Câu hỏi này chúng ta đã từng gặp nhiều lần trong Kinh thánh để rồi Chúa sẽ trả lời cho chúng ta trong ơn thánh. Chúng ta thử đưa ra mấy trường hợp. Trước hết, người thanh niên giầu có và thông luật đến hỏi Đức Giêsu:”Tôi phải làm gì để được sống đời đời”? Ôâng Nicôđêmô, sau khi nghe Đức Giêsu nói về sự “tái sinh” bởi nước và Thánh Thần, ông thấy khó hiểu và tự hỏi :”Tôi phải làm gì, không lẽ già cả như tôi lại chui vào lòng mẹ mà sinh lại”? Khi bị quật ngã trên đường đi Đamas, thánh Phaolô cũng đã hỏi Chúa một câu tương tự:”Thưa ngài, tôi phải làm gì”?

Tóm lại, qua bài Tin mừng hôm nay, thánh Gioan Tẩy giả đã vạch ra cho chúng ta một cách sống đẹp lòng Chúa để dọn đường cho Chúa đến là hãy sống yêu thương và công bằng. Đó là những hoa trái biểu lộ đích thực lòng sám hối.  Và đó cũng là những chuẩn bị cho những đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giêsu sẽ vạch ra sau này. Chúa đòi hỏi chúng ta phải ra sức làm việc phục vụ anh em trong yêu thương, trong công bằng bác ái, chú ý đến kẻ khác để có thể nói “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Chúa cũng muốn chúng ta thực hiện câu tục ngữ người ta thường nói :”Có đi có lại mới toại lòng nhau” : chúng ta có biết quên mình đi mà đến với tha nhân, thì Chúa mới đến với chúng ta và khi đã có Chúa là nguồn vui thì chắc chắn chúng ta sẽ được vui tươi. Hãy thực hiện lời thánh Phaolô :”Anh em hãy vui lên trong Chúa”.

 

.

CUỘC CHẠY ĐƯỜNG TRƯỜNG

AM Trần Bình An

Cuốn nhật ký Pole to Pole – One Man, 20 Million Steps (Từ cực Bắc tới cực Nam – Một người, 20 triệu bước chân), của tác giả Pat Farmer chỉ vừa xuất bản vài tháng, đã in tới lần thứ 10, vì sự chân thật và sức hấp dẫn của nó.

Ông Pat Farmer đã từ bỏ con đường chính trị đang thênh thang, bán ngôi nhà cùng chiếc xe duy nhất để lấy vốn làm lộ phí. Bởi lúc đó, chẳng ai tin ông có thể chạy bộ từ Bắc cực đến Nam cực, với 21 ngàn cây số, trong vòng 10 tháng, 13 ngày, cùng vô số gian lao do thời tiết, con người và dã thú.

Ông đã chạy một cự ly bình quân không thể tin nổi: 65 km mỗi ngày, có một số ngày chạy tới 100 km hoặc hơn.

“Vì sao tôi chạy? Tôi chạy vì tôi cần cống hiến cho nhân loại.Tôi chạy từ cực này tới cực kia của tôi không phải vì mục đích trở thành một kẻ tử vì đạo hay một anh hùng. Cha mẹ tôi và người vợ quá cố của tôi là một tấm gương sáng cho tôi; họ luôn giúp đỡ người khác. Có lẽ tôi làm điều này xuất phát từ cảm giác tội lỗi, vì đang sống một cuộc sống nhiều đặc quyền đặc lợi, trong một đất nước nhiều đặc quyền đặc lợi, hay vì những tội lỗi mà tôi đã phạm” Pat Farmer viết.

Rất nhiều lần trong hành trình, Pat Farmer đã muốn ngã quỵ, muốn dừng lại, nhưng rồi ông đã tự chiến thắng bản thân để vượt qua mọi hoàn cảnh. Ông đã giúp các Hội Chữ Thập Đỏ Úc quyên góp là rất đáng kể. Sau cuộc chạy, đã có vô số cư dân nghèo, đặc biệt trẻ em được cứu sống hoặc giúp thoát khỏi bệnh dịch nhờ hệ thống nước sạch.

Từ ngày 9-12/2012 đến 20/1/2013, với cùng mục đích cao quý như trên, ông Pat Farmer và chàng thanh niên Việt Nam 25 tuổi, Mai Nguyễn Đình Huy, cùng đồng hành, thực hiện hành trình siêu ma-ra-tông từ Móng Cái đến mũi Cà Mau, hơn 3 200 Km trong 40 ngày liên tục, mỗi ngày chạy khoảng 80 km. (theo Hiền Hòa, Tiền Phong)

Như thế, ông Pat Farmer và Mai Nguyễn Đình Huy đang chạy để phục vụ tha nhân, dường như cũng đang hưởng ứng lời kêu gọi trong hoang địa.

Bài trích Tin Mừng hôm nay, ngôn sứ Gioan Tiền Hô ân cần hướng dẫn, chỉ vẽ những đường chạy vô cùng lý thú và hữu ích, khi thiên hạ đổ xô đến nhờ tư vấn, thắc mắc phải chạy đường trường như thế nào.

Chạy theo Bác Ái

Thay vì chạy ghế, chạy chức, chạy theo thói tham lam, vơ vét, vỗ béo bản thân, ích kỷ, bất nhân, hận thù, mù quáng, thì ngôn sứ Gioan Tiền Hô khuyên nhủ, lấy đức bác ái làm kim chỉ nam cho cưộc chạy: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” (Lc 3, 11)

Sự chia sẻ, như xẻ cơm nhường áo, lá lành đùm lá rách, là biểu hiệu đầu tiên của tính nhân bản, khiến cho con người thoát ra khỏi kiếp sống theo bản năng, giúp cho loài người đứng trên các loài động vật, các loài thọ tạo khác.

Chạy theo Công Bằng

Thay vì chạy theo thói bất công, tham ô, nhũng lạm, xách nhiễu, lợi dụng làm giầu bất chính trên mồ hôi, xương máu và nước mắt của dân đen, thì ngôn sứ Gioan khuyên nhủ mọi người, các nhân viên công chức, những người có chức, có quyền, như thuế má, hải quan, hãy chạy theo đức công bằng, ngay thẳng: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” (Lc 3, 13)

Không chỉ nói riêng với công viên chức, Gioan Tiền Hô còn nhắm đến quần chúng rộng rãi, những kẻ kinh doanh, những giao dịch mua bán, sang nhượng, những quan hệ trao đổi, phải sòng phẳng, không dối gian, lừa gạt, không lời lãi quá mức bình thường, không ép giá thu lợi bất chính.

Chạy theo Chính Trực

Thay vì dùng võ lực có sẵn trong tay, để uy hiếp, bóc lột, chiếm đoạt, ức hiếp, tịch thu tài sản, sở hữu của người dân, thì ngôn sứ Gioan khuyên nhủ, chạy theo đức chính trực, tôn trọng người khác, không tơ hào, lợi dụng quyền thế để quấy nhiễu hành dân: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người, hãy bằng lòng với đồng lương của mình.” (Lc 3, 14)

Ngôn sứ Gioan Tiên Hô đồng thời cũng muốn nhắm đến những người có lợi thế, những người giàu có, quyền cao chức trọng, đừng lợi dụng thế mạnh tài chánh, hay quyền hành để chèn ép, bắt nạt, hoặc cướp trắng của cải người yếu thế, cô thế.

Chủ Nhân đường đua

Nhân tiện, ngôn sứ Gion Tiền Hô đính chính điều dân Do Thái đang ngộ nhận. Rằng ông chỉ là người tiền hô, đi trước dọn đường cho Chủ Nhân của cuộc đua đường trường. Người cao trọng vô cùng, mà chính ông cũng tự nhủ, không đáng cởi quai dép cho Người!

Trước Đấng Quyền Thế hơn đang đến, ngôn sứ Gioan tỏ ra kính cẩn và khiêm tốn, cùng tỏ thái độ vâng lời và phục vụ. Ngài cũng nhận mình chỉ là tôi tớ hèn mọn, như phận nữ tỳ hèn mọn của Mẹ Maria trong kinh Magnificat.

Chủ Nhân kiêm luôn trọng tài, sẽ phán quyết, thưởng phạt công minh, dựa theo cung cách chạy của những tay đua đến đích: “Tay Người cầm nia, rê sạch lúa trong sân: Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không bao giờ tắt, mà đốt đi.” (Lc 3, 17)

Thánh Phaolô cũng đã nỗ lực và nhiệt thành chạy đường trường, chia sẻ với tín hữu thành Philípphê: “Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu.” (Pl 3, 13-14)

Dù mọi người bỏ dở hành trình, con cứ tiến, quần chúng dễ bị lôi cuốn thì đông đảo, lãnh đạo sáng suốt lại hiếm hoi. Con phải có bản lãnh, đừng theo quần chúng mù quáng. (Đường Hy Vọng, 50)

Lạy Chúa Giêsu, Chủ Nhân của cuộc đua đường trường, xin luôn nhắc nhủ con bỏ lại sau lưng mọi thứ nặng nề, làm cản trở bước đường, mà bền chí vững vàng chạy đến Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đồng hành cùng con, để con noi gương Mẹ nhân ái, đôn hậu, biết quên mình, yêu thương, phục vụ mọi người. Amen.

 

.

THƯA THẦY, CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?

 Fx Đỗ Công Minh

Niềm vui ngày Chúa đến đang cận kề lắm rồi. Nó không còn chỉ là cảm giác lâng lâng nhưng là những biểu hiện cụ thể trong đời sống chúng con. Các nhà thờ, nhà nguyện, đèn hoa đã giăng mắc. Lễ đài, máng cỏ cũng đang đựoc chuẩn bị. Cờ phướn đã tung bay.  Bài Thánh ca đầu lễ Chúa nhật thứ  ba mùa Vọng cũng mở đầu với lời mời gọi :”Vui lên anh em hãy vui trong Chúa Trời, chớ sao cho cuộc đời thắm một niềm vui “ dựa theo thư Thánh Phao Lô Tông đồ: ” Vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi. Chúa đã gần đến “ ( Bài đọc 2 ) ; “ Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dây đi nào! Nhà Israel. . . “ (Bài đọc 1). Và đỉnh điểm của ngày vui là hình ảnh dân chúng lũ lượt đến xin Gioan làm phép rửa như một ngày hội hành hương hôm nay, với đủ mọi thành phần dân Chúa : “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì ? “.

Câu hỏi mọi người đặt ra cho Gioan cũng đang là một dấu hỏi lớn đặt ra cho con hôm nay. Con xin đặt mình trước mặt Chúa để xin được lắng nghe tiếng Chúa vọng lên trong con. Con xin thân thưa cùng Chúa : “Lạy Chúa Giêsu ! Con phải làm gì để đón Chúa ?”.

Có lẽ không khó gì nếu lặp lại câu trả lời của Gioan. Thế nhưng, có một điều con giật mình, Thánh Gioan không bảo những người đến xin rửa tội là phải đến đền thờ đọc kinh, phạt tạ, mặc dầu đó là những điều đạo đức nên làm, nhưng không là điều cốt yếu. Điều cốt yếu Ngài nêu lên là phải thể hiện Đức tin một cách cụ thể , bằng hành động rất thiết thực  với anh em đồng lọai : ”Ai có hai áo hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy “.

Đức Thánh Cha Phanxicô trong thời gian vừa qua đã đi đến nhiều quốc gia từ Á Châu, Mỹ Châu, Phi Châu. Dự đại hội Giới trẻ Thế giới tại Ba Lan và sắp tới đây vào đầu năm 2019 là JMJ PANAMA . Qua những chuyến đi này, Ngài đã gặp gỡ biết bao người đang phải khổ đau. Một em bé tại Philiphin đã khóc khi gặp Ngài. Ngài đã từng ôm hôn một người đàn ông với bộ mặt kinh dị tưởng như không ai dám  đến gần, thậm chí nhìn đến. Ngài đã vào các nhà tù để đem đến cho các tù nhân niềm hy vọng và sự sống lại về niềm tin vào cuộc đời. Ngài đã đến với các dân tộc Châu Phi đang có những hận thù chia rẽ nhau, đang có chiến tranh tương tàn với nhau, để kêu gọi họ hãy chung sống hòa bình,  hãy mở lòng đón nhận lòng xót thương của Thiên Chúa và thể hiện lòng thương xót lẫn nhau. Ngài đã khiến một vị Tổng Thống tự mình hối lỗi công khai trước Đấng tối cao và trước những người  dân của mình, xin được tha thứ. Tất cả những điều ấy, chẳng ai bảo Ngài phải làm. Nhưng  chính là sự thôi thúc của Thiên Chúa qua lời nhắc nhở của Vị Tiền hô trong Tin Mừng : “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?”, Ngài đã lên đường.

Lạy Chúa,

Lời Thánh Gioan mãi mãi là một lời nhắc nhở con. Tin vào Chúa con phải thể hiện đời sống chia sẻ, biết quan tâm đến những nhu cầu cấp thiết của người sống quanh mình, hầu mọi người đều được hưởng niềm vui có Chúa ở cùng. Không đòi hỏi người khác cung phụng, không hà hiếp ai, không bóc lột ai. Chính từ cách sống ấy dẫn đến mọi người chúng con trở thành anh chị em với nhau, trở thành những người con Chúa  đích thực.

Xin cho con luôn biết lắng nghe và đáp trả lời dạy của vị Tiền hô, chính là lắng nghe, đáp trả tiếng Chúa trong thẳm sâu tâm hồn. Bằng cách mỗi ngày dành ít phút tĩnh lặng khi đêm về hay lúc trời sáng tinh mơ hướng lòng lên cùng Chúa, để  biết phải làm gì trong cuộc sống mỗi ngày của con.

Lạy Chúa, con phải làm gì để đón Chúa đến với con? “ AMEN.

 

.

CHẤP NHẬN

Trầm Thiên Thu

Thiên Chúa nhân từ ban ơn cứu độ

Thế nhân tục lụy hưởng phúc bình an

Cuộc sống luôn nhiêu khê, phức tạp hơn người ta tưởng. Vì thề, cần hiểu biết quá khứ, tin tưởng vào tương lai, chấp nhận chính mình và người khác để có thể “nhẹ lòng” mà sống hết phần đời mình. Biết chấp nhận mình là tự tặng món quà cho mình, biết chấp nhận người khác là trao tặng món quà cho họ. Thật vậy, Brian Tracy (Canada) nói: “Món quà lớn nhất mà bạn có thể trao cho người khác là món quà của tình yêu và sự chấp nhận vô điều kiện – The greatest gift that you can give to others is the gift of unconditional love and acceptance”.

Đó là điều phù hợp với Mùa Vọng vì Mùa Vọng là mùa chia sẻ yêu thương – cả nghĩa đen và nghĩa bóng, cả cụ thể lẫn trừu tượng. Sắc Tím Mùa Vọng không phủ màu tím “buồn” mà là sắc tím thủy chung khi mong đợi Đấng Thiên Sai đến cứu độ nhân loại.

Hai ngọn nến tím đã được thắp lên, ngọn nến thứ ba được thắp lên mang sắc hồng vui mừng vì chúng ta đã kiên trì chờ đợi Chúa được nửa chặng đường Mùa Vọng, cũng đồng nghĩa rằng Ngài sắp đến: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4:4).

Mùa Vọng càng rút ngắn thì niềm hân hoan vui mừng càng dâng cao vì nhân gian sắp được đón Chúa Giêsu đến giải thoát nhân gian khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi, vì được lãnh nhận Ơn Cứu Độ. Niềm hy vọng ấy không mơ hồ, mà chắc chắn được toại nguyện.

VUI VẺ CHẤP NHẬN

Chấp nhận trái ngược với khước từ, nhưng chấp nhận cũng có hai kiểu khác nhau: chấp nhận vì yêu thích thì vui mừng, còn chấp nhận vì miễn cưỡng thì chẳng vui chi. Điều không vui hoặc điều buồn thì người ta thường muốn giữ kín, chỉ muốn ngồi một mình và tự gặm nhấm nó, nhưng niềm vui thì người ta muốn người khác cũng biết, đó cũng là một dạng chia sẻ – chia sẻ trong niềm vui nỗi mừng.

Thuở xưa, ngôn sứ Xôphônia phấn khởi mời gọi: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi!” (Xp 3:14). Sao lại thế nhỉ? Lý do rất đơn giản mà kỳ diệu: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Ngài đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Israel đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ” (Xp 3:15). Và rồi vào chính ngày ấy, người ta sẽ nói với Giêrusalem: “Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời” (Xp 3:16). Thật vậy, chớ hoang mang hoặc run sợ vì Thiên Chúa của chúng ta đang ngự giữa chúng ta, chính Ngài là Vị Cứu Tinh, là Đấng Anh Hùng. Không ai lại sợ hãi khi ở bên một vị oai phong lẫm liệt như vậy.

Mạnh mẽ xác định, ngôn sứ Xôphônia cho biết: “Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Ngài mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội. Những kẻ tản lạc được hồi hương Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa” (Xp 3:17-18). Đó cũng là lời dành cho mỗi chúng ta – đặc biệt là ngay ngày hôm nay. Quả thật, chúng ta vui mừng có Chúa, và Ngài cũng vui mừng ở giữa chúng ta để chia vui sẻ buồn với chúng ta, dù chúng ta hoàn toàn bất xứng. Niềm vui tột đỉnh, hạnh phúc dạt dào. Thật tuyệt vời biết bao!

Trong niềm vui khôn tả đó, ngôn sứ Isaia quả quyết: “Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi, bởi vì Đức Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Is 12:2). Và ông cũng nói với tất cả chúng ta: “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ. Các bạn sẽ nói lên trong ngày đó: Hãy tạ ơn Đức Chúa, cầu khẩn danh Ngài, vĩ nghiệp của Ngài, loan báo giữa muôn dân, và nhắc nhở: danh Ngài siêu việt” (Is 12:3-4). Như vậy, chúng ta cũng phải thể hiện cho mọi người biết niềm vui đang rạo rực trong lòng mình: “Đàn ca lên mừng Đức Chúa, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công. Hãy reo hò mừng rỡ, vì Đức Thánh của Israel quả thật là vĩ đại!” (Is 12:5-6). Chắc chắn không ai có thể trì hoãn cái sự sung sướng đó.

Người ta nói rằng “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, thế nhưng chúng ta đang có những niềm vui trùng lặp – không chỉ theo cấp số cộng mà là cấp số nhân. Niềm vui nối tiếp điều mừng, Thánh Phaolô cũng chẳng giấu được nên phải lặp đi lặp lại lời động viên: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!” (Pl 4:4). Thế nhưng không thể nói suông, mà phải thể hiện niềm vui đó qua cách sống “sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi” (Pl 4:5), lý do chính xác là “vì Chúa đã gần đến”. Lý do đơn giản mà to lớn và đặc biệt lắm.

Như đoán biết chúng ta còn e dè, ngần ngại, Thánh Phaolô tiếp tục động viên: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:6-7). Niềm vui của Kitô hữu khác hẳn niềm vui của người không có niềm tin tôn giáo. Đạo Chúa là đạo của tình yêu thương, đạo của niềm vui mừng. Và dù có thế nào cũng vẫn vui, vui vì có Chúa, vui cả ngay trong nỗi buồn, vui vì luôn hy vọng và tin tưởng – tích cực chứ không tiêu cực.

TIN TƯỞNG CHẤP NHẬN

Chấp nhận là điều không dễ, cũng là dạng quyết định, càng khó hơn khi phải chấp nhận điều gì đó quan trọng, và lại càng khó hơn gấp bội khi điều đó cần có niềm tin. Thánh Bernadette lý luận đơn giản mà chí lý: “Đối với người tin thì không cần giải thích, đối với người không tin thì giải thích cũng vô ích”.

Xã hội Việt Nam ngày nay khiến dân chúng mất niềm tin, bởi vì những người hữu trách chỉ nói mà không làm – nói thẳng ra là “lừa đảo đúng quy trình”. Cướp giỏi mà hèn hạ khi phải đối mặt với sự thật. Nói hay mà làm dở thì quá tệ, hoàn toàn vô ích, không có tác dụng. Tân Ước nói: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Cựu Ước nói: “Con chó quay lại chỗ nó mửa, đứa ngu lặp lại chuyện ngu đần. Nếu con gặp một kẻ tự cho mình là khôn, thà hy vọng vào đứa ngu còn hơn” (Cn 26:11).

Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả là con ông Dacaria, và mệnh danh là Tiếng-Hô-Trong-Hoang-Địa, nhưng ông là người đầy uy tín. Khi đám đông hỏi: “Chúng tôi phải làm gì đây?”. Ông trả lời ngay: “Ai có hai áo thì CHIA cho người không có; ai có gì ăn thì cũng LÀM như vậy” (Lc 3:11). Ui da, sao mà khó quá! Ông này đúng là dị nhân chính tông đây. Ấy thế mà vẫn có những người thu thuế đến chịu phép rửa, và tôn ông là Sư phụ. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?”. Ông bảo họ: “ĐỪNG ĐÒI HỎI gì quá mức đã ấn định cho các anh” (Lc 3:13). Ngay cả binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì PHẢI LÀM GÌ?”. Ông bảo họ: “CHỚ hà hiếp ai, cũng ĐỪNG tống tiền người ta, HÃY an phận với số lương của mình” (Lc 3:14). Một câu ngắn mà có ba mệnh lệnh – hai xác định, một phủ định.

Ông Gioan chấp nhận “sống bụi” và muốn chia sẻ cách sống giản dị với mọi người – nghĩa là ông muốn chúng ta hành động như ông vậy: Chấp nhận đức tin và chia sẻ đức tin. Đó là sống theo chân lý, công bình, bởi vì mọi người có thể hiện công lý thì xã hội mới khả dĩ có nền hòa bình đích thực. Thể hiện công lý là tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của người khác. Những điều ông Gioan kêu gọi ngày xưa thì ngày nay là những điều thuộc lĩnh vực Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo. Ngày xưa “dị ứng” với chính trị, nhưng ngày nay đã có cách nhìn khác. Thánh GH Phaolô VI nói: “Chính trị là một trong những hình thức bác ái cao nhất”. Chủ đề Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 2019 (ngày 1-1, tết dương lịch) đề cập mối quan hệ giữa chính trị và hòa bình: “Chính Trị Tốt Phục Vụ Hòa Bình”.

Ngày xưa, trong khi tha thiết trông mong Đấng Cứu Thế, dân chúng thấy ông Gioan có phong cách lạ nên họ đặt vấn đề: “Biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia?” (Lc 3:15). Thế nhưng ông xác định với mọi người thẳng thắn và rạch ròi: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi KHÔNG ĐÁNG cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: THÓC MẨY thì thu vào kho lẫm, còn THÓC LÉP thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Lc 3:16-17). Mùa Vọng là cơ hội tốt, là dịp may để thóc lép “hút” các dưỡng chất tâm linh mà có thể trở nên thóc mẩy.

Là người được Thiên Chúa đề cao, nhưng ông Gioan khiêm nhường nhận mình bất xứng, không đáng “cởi quai dép” chứ đừng nói chi là “xách dép” cho Chúa Giêsu. Ông biết người và biết mình nên ông chấp nhận. Vả lại, chính ông cũng đang mong đợi Đấng đến sau ông, vì người đó mới đích thực là Đấng Thiên Sai – Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ.

Bất cứ lúc nào chúng ta mong chờ ai đó thì cũng chỉ vì quý mến người đó. Mong đợi Chúa, chắc chắn chúng ta cũng phải yêu mến Ngài, nếu không thì… “kẹt” lắm! Thật vậy, Thánh Phaolô đã khẳng định: “Nếu ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1 Cr 16:22). Rất rõ ràng, rất rạch ròi.

Lạy Thiên Chúa, hôm nay chúng con hân hoan vì Ngôi Lời sắp sửa đến ở với chúng con, để chia vui sẻ buồn, đồng lao cộng khổ, thông phần số phận với chúng con, và dạy chúng con những điều tốt lành. Xin giúp chúng con biết yêu mến Con Chúa, hiện thân của Chúa, mà dám sống “khác người”, đồng thời can đảm chấp nhận và chia sẻ mọi thứ với bất cứ ai – nhất là với những người hèn mọn nhất. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

 

.

VUI TRONG HY VỌNG ĐỢI CHỜ

Lm. Bùi Trọng Khẩn

Thời gian đang đưa chúng ta tới gần lễ Giáng Sinh. Chúng ta đang mong chờ điều này và cảm thấy vui khi được đón mừng lễ Noel. Cả những người khác tôn giáo với chúng ta cũng thấy vui. Nhiều người cứ hỏi sắp tới lễ Noel chưa vậy?

Chúa nhật thứ III mùa vọng hôm nay được gọi là Chúa nhật của niềm vui, nên cho phép sử dụng áo màu hồng. Thánh Phaolô nói: “Hãy vui lên, vì Chúa đã đến gần”. Đó là lý do để chúng ta vui. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở lời nói, hô hào vui để đón Chúa thì niềm vui ấy chưa trọn vẹn, mau qua, giả tạo, khó đạt được lắm. Niềm vui mà Chúa Giêsu mang đến cho nhân loại là những việc làm cụ thể kiểm chứng được. Đó chính là dấu chỉ về ơn cứu độ mà con người mọi thời hằng khát khao.

Lúc ấy ông Gioan đang ngồi tù, liền sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: Thầy có thật là đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? Đức Giêsu đã trả lời: các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ được nghe được, người chết trỗi dậy, và kẻ nghèo được nghe tin mừng”.

Dân chúng đã được thấy, được hưởng những ân phúc của Thiên Chúa qua các phép lạ và công việc phục vụ đồng loại của Chúa Giêsu. Đây là công việc hàng đầu và là sứ mệnh của Chúa Giêsu. Sứ mệnh ấy xuất phát từ Chúa Cha, nay thể hiện qua Chúa Giêsu để cho nhân loại thấy rằng: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người.

Nhưng tại sao trước bao nhiêu phép lạ và công việc phục vụ ấy của Chúa Giêsu mà người ta vẫn không nhận ra Chúa là đấng cứu thế.; thậm chí ông Gioan là kẻ dọn đường cho Chúa đến cũng còn chưa rõ, nên mới sai người đến thăm dò, hỏi han xem Chúa Giêsu có phải là đấng Thiên Sai không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác? Chắc chắn Gioan phải biết rõ hơn về Chúa Giêsu so với người khác. Việc Gioan sai người đi hỏi điều này không có nghĩa là Gioan thiếu hiểu biết về Chúa Giêsu nhưng ông muốn nói cho người khác đặc biệt môn đệ của ông được trực tiếp nghe Chúa Giêsu trả lời mà biết chính xác hơn, không còn mơ hồ, nghi ngờ nữa. Phải nói đây là phương pháp giáo dục rất tài tình và tế nhị của Gioan. Nhờ đó củng cố đức tin cho chúng ta hôm nay nữa. Đúng như thánh Phaolô nói: đức tin có là nhờ nghe, nghe thế nào được nếu không có người rao giảng, rao giảng thế nào được nếu không có ai được sai đi?

Gioan Tẩy Giả biết sứ mệnh của mình sắp chấm dứt, vì ông xác định mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Ong là tiếng, Đức Giêsu là Lời. Ong là ngọn đèn, Đức Giêsu là ánh sáng. Ong là phù rể, Đức Giêsu là chàng rể. Ong là người dọn đường, Đức Giêsu là con đường. Ong phải mờ nhạt, phải nhỏ bé đi để nhường chỗ cho Đức Giêsu xuất hiện. Quả thật, ông bị ngồi tù và bị chặt đầu đang khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Thánh Gioan đã không bỏ lỡ cơ hội nào mà không làm chứng cho Đức Giêsu. Dù thuận tiện hay không thuận tiện, Lời Chúa vẫn được rao giảng. Vì làm chứng cho Chúa là một niềm vui, giới thiệu về Chúa là một niềm vui, giới thiệu ơn cứu độ cho người khác là một niềm vui dù bản thân Gioan có phải bị thiệt thòi, tống ngục, bị chặt đầu.

Ơn cứu độ của Chúa mang lại niềm vui không chỉ cho con người mà cho cả những loài vô tri vô giác nữa. Isaia mời gọi: “Vui lên nào, hỡi sa mạc, hỡi đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang hãy mừng rỡ, hãy trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa nhưu khóm huệ và hân hoan múa nhảy reo hò….” Đúng thế, vì Thiên Chúa cứu độ tất cả mọi loài thụ tạo, nên có lần thánh Phaolô nói: ‘muôn loài thọ tạo đang quằn quại rên xiết chờ ngày được giải thoát’. Riêng con người là loài có ý thức thì nỗi khát khao này càng cháy bỏng, mãnh liệt thiết tha hơn nhiều. Thánh vịnh 145 là lời cầu xin của dân Chúa thốt lên rằng: “Lạy Chúa xin ngự đến mà giải thoát chúng con”.

Sau Chúa nhật I Mùa vọng, Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối, Chúa nhật II kêu gọi dọn đường, Chúa nhật này chúng ta được thấy kết quả của ơn cứu độ là niềm vui cho con người. Quả thật, nếu người ta hưởng ứng theo lời ngôn sứ Gioan rao giảng, thực hành những điều ông dạy là: ai có 2 áo hãy chia cho người không có, ai có cái gì ăn cũng làm như vậy. Đối với người thu thuế thì ông dạy: ‘đừng đòi hỏi quá mức đã ấn định cho mình’. Đối với binh lính thì ông dạy: ‘chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với đồng lương của mình'(x. Lc 3,10-18). Những lời đề nghị rất thực tế của Gioan mục đích muốn giải thoát con người tội lỗi khỏi những thứ cồng kềnh, ngổn ngang làm chúng ta quá nặng lòng với trần thế, quá bận tâm với cuộc sống khiến người ta buồn chứ không có niềm vui thật sự. Việc thay đổi tận căn phải phát xuất từ chính cõi lòng mỗi người trước tiên. Có câu tục ngữ nói: “Dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi thì bạn vẫn chỉ là con người cũ, ngược lại ở nhà mà đổi mới là đi rất xa”.

Dựa vào Lời Chúa hôm nay, mỗi người kitô hữu chúng ta hãy suy nghĩ mình đang thế nào? Trạng thái tâm hồn có niềm vui của những bon chen, ích kỷ, những toan tính nhỏ nhen, những tham lam bất công, chà đạp, vụ lợi chỉ vì miếng cơm manh áo, chút quyền lợi địa vị; hay là có niềm vui thánh thiện về ơn cứu độ? Mình đang ở trong môi trường thú vui tội lỗi hay môi trường niềm vui đạo đức? Mình đã ăn năn sám hối và dọn lòng tới đâu để chờ đón Chúa Giáng Sinh, đón rước Chúa mỗi lần rước lễ? Sự thật căn bản mà thánh Gioan tông đồ bảo là “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta”(1Ga 1,8-9).

Không có niềm vui nào lớn bằng niềm vui của người tội lỗi được Thiên Chúa tha thứ, được ơn cứu rỗi. Thời gian còn rất vắn vỏi, mỗi người chúng ta hãy tìm cơ hội để thanh toán lương tâm, coi lòng với Chúa trước lễ Giáng Sinh. Vì thế, những ngay cuối cùng còn lại trong Mùa Vọng này chúng ta hãy sống tích cực hơn bằng cách không chỉ dừng lại ở những tâm tình đạo đức, dọn dẹp bên ngoài mà phải biết sám hối tận căn; biết hành động bác ái, chia sẻ phục vụ. Càng chuẩn bị kỹ, tốt thì niềm vui càng tràn đầy. Càng thực hành Lời Chúa, chúng ta càng hạnh phúc, bình an.

Chớ gì mọi người luôn có mãi niềm vui Chúa ban để giới thiệu cho những người khác biết về đạo, về Thiên Chúa của chúng ta bằng những hành động yêu thương cụ thể.

 

.

TÔI PHẢI LÀM GÌ?

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Tôi Phải Làm Gì?

Mỗi cuộc đời đều có những nẻo đường khác nhau và mỗi bước ngoặt lại tự hỏi: Tôi phải làm gì? Chắc hẳn, chẳng vẽ ra được gì trong tương lai, khi tương lai còn ngoài tầm tay, nhưng có thể thực hiện ngay trong hiện tại điều có thể làm để đi tới tương lai. Trong hoàn cảnh nhiều người đến hỏi Gioan Tẩy Giả tại sống Gio đan. Gioan trả lời cho từng hạng người: Ai có đem cho, ai làm thu thuế đừng đòi hỏi quá những điều đã ấn đinh, những binh lính hãy thi hành trách nhiệm đừng ức hiếp ai…

Từng người cần bắt đầu từ vị trí của mình. Từ Tốn trong sách Trung Dung viết: “Muốn đi xa, bước từ gần, lên cao bước từ thấp”.

Kiên trì trong điều lành.

Con đường ngay thẳng của người công chính sẽ không gây ra những sợ hãi. Điều con người sống ngay chính như người xưa dạy: “Cây ngay không sợ chết đứng”. Lời Chúa sẽ mách bảo lúc gặp thử thách sẽ  có Chúa Thánh Thần nói thay (Lc 12, 12) và “Sự thật sẽ giải thoát” (Ga 8, 31). Bước đi của người ngay lành, được Chúa giữ gìn: “Chúa chăm sóc cuộc đời người thiện hảo, gia nghiệp họ tồn tại đến muôn năm. Buổi gian nan họ không hề hổ thẹn, ngày đói kém lại được no đầy.” (Tv 37. 18 – 19).

Cuộc sống bấp bênh.

Hãy vượt qua nó! Đó là quyết định sáng suốt khi gặp những khó chịu trong đời sống. Lắm lúc mình cũng chẳng hiểu mình chứ đừng nói hiểu người khác. Những khi đang trôi chảy, bỗng dưng có cảm giác chán nản. Quả như Phan Bội Châu viết: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng quá, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Chúa cũng dạy: “Vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Mỗi người đều có những thập giá, chẳng ai giống ai, có đem ra chia sẻ với người khác, cũng không ai vác thay cho mình. Con người cần có thử thách để nên mạnh mẽ, cần có những khó chịu để tìm cách vượt qua, cần có niềm tin vào Chúa để vững bước. Nếu Chúa ban cho quả chanh, ở đâu đó Chúa cũng để một gói đường.

Tự hỏi bản thân!

Khi luôn tự hỏi bản thân muốn gì và làm sao? Con người sẽ phát huy được những khả năng thích ứng. Tự hỏi như một chất vấn nhưng cũng chính mình trả lời. Không được buông xuôi, không để xao lãng. Như những người đến hỏi Gioan: “Tôi phải làm gì?” Là một câu hỏi hay để điều chỉnh hoặc gia tăng tiến bước về phía trước không sợ lạc đường. Điều người thanh niên giàu có hỏi Chúa là quan trọng nhất: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” ( Mc 10, 17). Chắc chắn câu trả lời từ Chúa, đừng dựa vào của cải thế gian, mà hãy sống với Chúa và tuỳ thuộc nơi Người.

Dọn đường Chúa đến là dọn lại tâm hồn đã cũ kỹ qua năm tháng. Dọn lại những khúc mắc, băn khoăn, lo ấu. Dọn lại những tình bằng hữu, tình yêu vợ chồng, tình yêu gia đình, long bác ái yêu thương. Và cuối cùng bước tiếp trong năm mới, chặng đường mới trong tuơi vui, mạnh mẽ, cùng Chúa lớn lên trong đời.

 

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG_C

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng này, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui lên, vì Chúa sắp đến rồi. Quả thật, xưa kia, Chúa Nhật III Mùa Vọng này được gọi Chúa Nhật “hãy vui lên”, nhan đề được mượn từ thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật hôm nay.

Xp 3: 14-18

Trong Bài Đọc I, ngôn sứ Xô-phô-ni-a mời gọi Giê-ru-sa-lem “hãy vui lên”, vì đã được Thiên Chúa sủng ái và sắp được Thiên Chúa viếng thăm.

Pl 4: 4-7

Trong Bài Đọc II, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê “hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”, chính Ngài là nguồn bình an.

Lc 3: 10-18

Trong Tin Mừng, thánh Lu-ca thuật lại lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả, lời rao giảng này xác định những nét đặc trưng của “Tin Mừng”.

BÀI ĐỌC I (Xp 3: 14-18)

Ngôn sứ Xô-phô-ni-a sống vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên, ông thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem vào những năm 640-625 trước Công Nguyên.

  1. Bối cảnh

Vào lúc đó, vương quốc Giu-đa được cai trị bởi một ấu chúa là Giô-si-gia, lên ngôi lúc tám tuổi. Thời kỳ này được ghi dấu bởi những di hại của một triều đại dài lâu do một vị vua vô đạo là Mơ-na-se: phong tục ngoại giáo, thờ cúng ngẫu tượng, bạo lực, gian lận, bất công xã hội, thói kiêu căng của những kẻ quyền thế, tinh thần hưởng thụ của những người giàu có, v.v… Vị ngôn sứ lớn tiếng phê phán lối sống vô đạo, thiếu tình người này và tiên báo cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, đó sẽ là “Ngày của Đức Chúa”, ngày thịnh nộ. Tuy nhiên, đó sẽ không là ngày tận thế, vì Thiên Chúa sẽ cho sót lại một dân nghèo hèn và bé nhỏ, dân này sẽ không làm những chuyện tàn ác bất công, nhưng tìm nương ẩn nơi Đức Chúa.
Bài hoan ca được trích dẫn hôm nay mời gọi Giê-ru-sa-lem hãy vui lên, và ngay liền sau đó, gợi lên những người công chính thoát khỏi án phạt. Nguyên nhân sâu xa khiến Giê-ru-sa-lem hoan hỉ vui mừng chính là chắc chắn mình đã được Thiên Chúa sủng ái, đã được Thiên Chúa cứu độ, Ngài là Chủ Tể lịch sử và đang ngự giữa dân Ngài.

  1. Niềm vui của dân Ngài cũng là niềm vui của Thiên Chúa

Điều ngạc nhiên nhất của bài hoan ca này đó là vị ngôn sứ thiết lập một sự đối xứng giữa niềm vui của dân thành Giê-ru-sa-lem và niềm vui của Thiên Chúa, chính Ngài sẽ vui mừng hoan hỉ vì gặp lại dân Ngài.
Chắc chắn không cần thiết phải tìm kiếm xem biến cố nào đã gây nên niềm phấn khởi đầy lạc quan ở nơi vị ngôn sứ. Trước tiên, đây là viễn cảnh thời Thiên Sai. Bài thơ của ông ca ngợi vị Vua Cứu Tinh tiến vào Thành Thánh, Ngài là vị vua chiến thắng và giải thoát: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy xa”, vì thế “Này Xi-on, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời”. Trong ngôn từ của vị ngôn sứ, sự giải thoát là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa tha thứ: “Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng”.
Thành Thánh Giê-ru-sa-lem hân hoan reo mừng đón tiếp Đức Vua của mình, chính Đức Chúa thân hành ngự giá đến ở giữa dân Ngài, Ngài là vị vua đích thật của Ít-ra-en. Trong một bản văn mang đậm nét Thiên Sai hơn, ngôn sứ Da-ca-ri-a ca ngợi niềm vui của Giê-ru-sa-lem bằng những lời lẽ tương tự: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỹ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Chúa của người đang đến với ngươi…” (Dcr 9: 9). Thành Đô Giê-ru-sa-lem được giải thoát và sống trong cảnh thái bình thịnh trị, bởi vì Chúa “sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi” như người yêu lấy tình thương mà biến đổi người mình yêu. Niềm vui của Thiên Chúa chẳng thua kém gì niềm vui của Thành Thánh. Thiên Chúa hạnh phúc được ở giữa những người mà tình thương của Ngài đã cứu thoát. “Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” vì dân Ngài đã thấy ơn cứu độ.
Một vị ngôn sứ khác, I-sai-a đệ tam, cũng thấy Thiên Chúa vui mừng hoan hỉ, nhưng trong viễn cảnh cánh chung, Thiên Chúa liên kết mình vào niềm vui của những người được tuyển chọn: “Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan vì những gì chính Ta sáng tạo. Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng. Vì Giê-ru-sa-lem Ta sẽ hoan hỷ, vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng. Nơi đây, sẽ chẳng còn nghe thấy tiếng than khóc kêu la” (I s 65: 17-19). Thật ra bản văn của Xô-phô-ni-a gợi lên quang cảnh Thành Thánh Giê-ru-sa-lem trên trời.
Niềm vui cứu độ thời Thiên Sai là niềm vui mà sứ thần loan báo cho Đức Ma-ri-a, thiếu nữ Xi-on tuyệt vời nhất: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà… Thưa bà, xin đừng sợ… Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà”.

BÀI ĐỌC II (Pl 4: 4-7)

Thánh Phao-lô cũng khẩn khoản kêu mời các tín hữu Phi-líp-phê hãy vui lên. Còn hơn cả lời khuyến dụ, lời mời gọi này là nguyên tắc căn bản trong thần học của vị Tông Đồ, đây là niềm vui tâm linh: “Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”, đó là biểu thức quen thuộc của thánh Phao-lô.

  1. Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa

Tuy nhiên, nhờ bức thư này, chúng ta biết các tín hữu Phi-líp-phê phải chiến đấu cam go vì niềm tin của mình: “Quả thế, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục” (Pl 1: 29-30).
Thánh Phao-lô đưa ra một mẫu gương về niềm vui này, vì vào lúc đó thánh nhân đang bị giam cầm, chắc chắn ở Ê-phê-xô. Thánh nhân đã nhận biết những đau khổ của sứ vụ tông đồ (vài người dân Cô-rin-tô đố kỵ vu khống ngài và cản trở sứ vụ của thánh nhân ở Ê-phê-xô), tuy nhiên, thánh nhân vẫn vui trong niềm vui của Chúa.

  1. Sống hiền hòa

“Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi”“Hiền hòa” là dụng ngữ của khoa khôn ngoan Hy lạp, đức hạnh này đặt nền tảng trên lý trí và mực thước, được thăng hoa ở nơi một cuộc sống hiền hòa. Thánh Phao-lô lập lại đức hiền hòa này trong lời khuyên gởi đến hai môn đệ và là cộng tác viên của ngài là Ti-mô-thê: “Không được nghiện rượu, không được hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, không hay gây sự, không ham tiền” (1Tm 3: 3) và Ti-tô: “Đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người.” (Tt 3: 2) Nếu dân ngoại tìm kiếm đức hạnh như vậy, huống chi là những người Ki-tô hữu. Còn gì tốt đẹp cho bằng các tín hữu phải nêu gương về một cuộc sống hiền hòa. Rõ ràng thánh Phao-lô gởi đến các Ki-tô hữu gốc Hy lạp, họ có thể hiểu được lời khuyên của thánh nhân.

  1. Chúa đã gần đến

Những người Ki-tô hữu sống vui vẻ và hiền hòa vì họ xác tín ơn cứu độ đang ở trong tầm tay, điều mà các tác giả Tin Mừng diễn tả “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần rồi”. Thánh Phao-lô có một cái nhìn tăng tốc của lịch sử. Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su đã thiết lập kỷ nguyên cứu độ; chắc chắn kỷ nguyên này sẽ triển nở viên mãn vào ngày Đức Giê-su quang lâm. Viễn cảnh này phải đem lại niềm vui tròn đầy cho người Ki-tô hữu, tuy nhiên, ngay từ bây giờ viễn cảnh này được khai mở trong một cuộc sống kết hiệp với Đức Ki tô.

  1. Niềm vui, lời khẩn nguyện và bình an

Vui vì tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, do đó chẳng có gì phải lo lắng cả. Chính ở nơi niềm tin tưởng này mà lời khẩn nguyện và tâm tình tạ ơn được liên kết mật thiết với nhau. Mối liên kết này hoàn toàn thuộc truyền thống Kinh Thánh. Các tác giả thánh vịnh dâng lên Thiên Chúa lời khẩn nguyện và tâm tình cảm tạ tri ân của mình, đồng thời các ngài tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ đáp trả niềm tin tưởng của mình. Trong những viễn cảnh Ki-tô giáo, lời khẩn nguyện cắm rể sâu vào trong tâm tình cảm tạ và chiêm ngắm mầu nhiệm cứu độ. Từ đó sinh ra một sự bình an trong tâm hồn, một sự bình an không phát xuất từ nỗ lực phàm nhân, nhưng từ lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài, một sự bình an vượt quá mọi hiểu biết phàm nhân.
Trong các thư của thánh Phao-lô, chúng ta cũng gặp thấy những lời khuyên tương tự, nhưng thư gởi tín hữu Phi-líp-phê được viết với những lời lẽ thân tình và tràn đầy tin tưởng, qua đó thánh Phao-lô để lộ những bí ẩn đời sống nội tâm của mình.

TIN MỪNG (Lc 3: 10-18)

Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng duy nhất cho nhiều chi tiết xác định về lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả. Bản văn này cũng dâng hiến một lợi ích lớn lao: thánh ký không rao giảng về những đề tài thần học khó hiểu, nhưng về đời sống.
Bản văn bao gồm hai phần, tương xứng với chuyển động kép của câu chuyện: phát triển sứ điệp của thánh Gioan Tẩy Giả, khởi đi từ giáo huấn thực tiễn đến mặc khải về Đấng Mê-si-a; đồng thời phát triển tâm lý của những ai thực tâm muốn thay đổi cuộc đời mình, từ việc mở lòng mình ra thi hành đức ái và sự công chính, cho đến việc vươn mình lên tìm kiếm Thiên Chúa hay ít ra vị sứ giả của Ngài.

  1. Đám đông

Đối với đám đông, những người đến xin được chịu phép rửa và bày tỏ ước nguyện thăng tiến trên con đường đức hạnh, thánh Gioan Tẩy Giả đề xuất nguyên tắc đức ái: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Việc san sẻ chia sớt cho nhau những hạt cơm manh áo là bước khởi đầu của sự biến đổi tấm lòng. Chúng ta đừng quên, thánh Lu-ca cũng là tác giả sách Công Vụ Tông Đồ, trong đó thánh ký đã mô tả hành động “tương thân tương ái”giữa các Ki-tô hữu tiên khởi: “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự điều là của chung” (Cv 4: 32).

  1. Những người thu thuế

Những người thu thuế bị quy trách nhiệm là những kẻ tham lam hút máu đồng bào của mình, bởi vì những người thu thuế này ứng trước tiền thuế dân chúng phải nộp cho đế quốc Rô-ma, sau đó, nâng cao tiền thuế của dân chúng để làm giàu cho mình. Hơn nữa, dân chúng khinh bỉ họ vì sự hiện diện của họ nhắc nhớ ách đô hộ của chính quyền Rô-ma trên dân Do thái và buộc tội họ là tay sai của thế lực ngoại bang và đối xử họ như “quân trộm cướp”.
Đức Giê-su thường giao du với “quân trộm cướp” này, những kẻ tội lỗi này; Ngài cũng sẽ đưa ra một người trong số họ làm mẫu gương cầu nguyện (Lc 18: 9-14). Chính họ mà thánh Lu-ca, ngay từ khởi đầu Tin Mừng, giới thiệu họ như những người thành tâm thiện chí muốn được hoán cải: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?”. Thật lạ lùng, trong Tin Mừng Gioan những người Pha-ri-sêu cũng đến hỏi Gioan Tẩy Giả, nhưng với thái độ hiếu kỳ và ngờ vực, vì thế họ từ chối hoán cải. Thói tự cao tự đại làm cho họ trở nên cố chấp trong khi những kẻ bị khinh bỉ, ghét bỏ lại là những người khiêm tốn mở lòng mình ra trước ánh sáng.

Đối với những người thu thuế này, thánh Gioan Tẩy Giả không đòi hỏi họ phải từ bỏ nghề nghiệp của mình, nhưng thực thi công bình: “Đừng đòi hỏi điều gì quá mức ấn định cho các anh”.

  1. Binh lính

Binh lính cũng đến hỏi thánh nhân: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?”. Những binh lính này là ai? Chắc chắn không phải là binh lính Rô-ma, họ tránh không trà trộn vào đám đông dân chúng, cũng không phải binh lính Do thái, vì Rô-ma không cho các đất nước bị chiếm đóng quyền tổ chức quân đội. Chắc hẳn đây là dân quân tự vệ được chiêu mộ từ các dân tộc chung quanh, họ thường hộ tống những người thu thuế, vì việc thu thuế thường khó khăn. Khi kể họ là binh lính, phải chăng thánh Lu-ca có ý định khoác cho sứ điệp của Gioan Tẩy Giả một chiều kích phổ quát? Dù thế nào, họ cũng là hạng người bị dân chúng ghét cay ghét đắng như bọn người thu thuế.
Đối với những binh lính này, thánh nhân cũng không đòi hỏi họ từ bỏ nghề nghiệp của mình, nhưng thực thi công bình: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”.

  1. Dân chúng

Thật có ý nghĩa biết bao, vào lúc này, thánh Lu-ca không còn nói đến “đám đông”, nhưng đến “dân”“Hồi đó, dân đang trông ngóng”. Như các ngôn sứ xưa kia, thánh Gioan kêu gọi họ hãy hoán cải đừng chần chờ gì nữa vì thời gian sắp đến gần rồi. Thánh nhân nói như một người có uy quyền khiến những ai trông đợi Đấng Thiên Sai tự hỏi: “biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mê-si-a!”. Qua sách Công Vụ Tông Đồ chúng ta biết rằng trong suốt nhiều thập niên có những cộng đoàn môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, họ vẫn trung thành lời dạy của thầy mình và tôn kính thánh nhân như Đấng Thiên Sai (Cv 18: 24-25; 19: 1-7).
Lúc đó, thánh Gioan Tẩy Giả công bố cho mọi người biết rằng ông không là Đấng Thiên Sai. Với sự khiêm hạ, thánh nhân gợi lên sự cao cả vô cùng tận của Đấng mà ông chỉ là Tiền Hô của Ngài: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Lời này ám chỉ chính xác đến một truyền thống lâu đời, theo đó các kinh sư cấm không được bắt một người nô lệ Do thái làm một công việc nặng nhọc hay hèn hạ như cởi dày cho chủ hay rửa chân cho chủ. Ngay cả một công việc hèn hạ đến thế, thánh nhân tự nhận mình cũng không xứng đáng đối với Đấng mà ông có nhiệm vụ chuẩn bị con đường cho Ngài đến.

  1. Phép rửa của Đấng Thiên Sai

Thánh Gioan Tẩy Giả nhấn mạnh sự khác biệt giữa phép rửa của ông và phép rửa mà Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”“Lửa” này phải chăng được hiểu là lửa của Chúa Thánh Thần như các Giáo Phụ đã hiểu, hay phải hiểu lửa theo Kinh Thánh, nghĩa là lửa có chức năng vừa thanh luyện những người công chính vừa tiêu hủy quân vô đạo? Chúng ta không biết chính xác, nhưng một điều chắc chắn, đó là thánh Gioan Tẩy Giả tự nhận mình là vị Tiền Hô, không chỉ của Đấng Thiên Sai nhưng cũng của Giáo Hội. Chính Giáo Hội sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, Đấng ngự xuống trên Giáo Hội như “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa” vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2: 1-4).

  1. Đấng Thiên Sai Thẩm Phán

Khi mô tả chân dung của Đấng Thiên Sai với tư cách là một vị Thẩm Phán, Ngài sẽ tách biệt những người tốt ra khỏi những kẻ xấu, thánh Gioan Tẩy Giả định vị mình vào hàng những đại ngôn sứ, liên kết kỷ nguyên Thiên Sai và kỷ nguyên cánh chung vào trong cùng một viễn cảnh: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Giờ thu hoạch mùa màng sẽ tới, nhưng chậm hơn. Chính Đức Giê-su sẽ là vị Thẩm Phán của ngày Chung Thẩm.

  1. Khởi điểm của Tin Mừng

“Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho  họ”. Cũng như Tin Mừng Mác-cô, Tin Mừng Lu-ca đánh dấu khởi điểm Tin Mừng bằng lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả. Điều này khiến chúng ta nghĩ rằng khoa giáo lý tiên khởi bắt đầu với việc kể ra thánh Gioan Tẩy Giả và lời dạy của thánh nhân. Bản văn của thánh Lu-ca bày tỏ rất rõ nét khoa giáo lý này. Việc thực hành đức ái và công bình được xem như bước khởi đầu của việc hoán cải, nhưng như thế vẫn chưa đủ, phải dẫn đến việc kết hiệp với một con người, Đức Ki-tô. Chính trong Giáo Hội mà sự kết hiệp này sẽ được thực hiện.
Đây là một trong những bài học, một bài học không nhỏ chút nào, của Tin Mừng hôm nay.

 

.

NIỀM VUI ĐÍCH THỰC.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Cũng như Chúa Nhật IV Mùa Chay, Chúa Nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật mầu hồng. Không biết truyền thống này có từ bao giờ, nhưng hẳn chúng ta thầm hiểu ý của Giáo Hội khi cho phép mặc phẩm phục mầu hồng trong Thánh Lễ. Mầu hồng gợi lên niềm vui, niềm hân hoan. Các bài đọc Lời Chúa cũng tràn đầy niềm hân hoan, phấn khởi. Tất thảy vì một lẽ này: đổi mới vì sợ hãi thì sẽ hời hợt và chóng qua, trái lại vì hân hoan phấn khởi mà canh tân cuộc đời thì sẽ thiết thực và bền lâu.

Sau khi nghe Gioan Tẩy giả rao giảng, dân chúng tuôn đến tham vấn: “chúng tôi phải làm gì đây?” Không ẩn mình trong đám đông, nhóm thu thuế, anh em binh lính cũng đến để xin hướng dẫn cách cụ thể đối với trường hợp của mình (x.Lc 3,11-14). Chắc hẳn người dân Israel thời bấy giờ đang khát khao sự xuất hiện của Đấng Thiên sai để giải thoát họ khỏi ách nô lệ ngoại bang. Và họ cũng như đã thông thuộc lời tiên báo của ngôn sứ Isaia năm nào về thời của Người: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi…Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Is 40,4-5). Qua phần Phụng Vụ Lời Chúa, chúng ta có thể nhận ra một vài lý do để phấn khởi, vui mừng:

-“Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi có Đấng Thánh của Israel thật cao cả”. Điệp khúc của đáp ca cho chúng ta một lý do để hân hoan đó là vì Đấng Thánh đang ở giữa chúng ta. Gioan Tẩy Giả cũng đã trả lời với một số tư tế và thầy Lêvi được phái đi từ Giêrusalem: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một Đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1,26). Đấng ấy chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Có Chúa ở cùng, chính là hạnh phúc bất tận. Có Đấng cao cả cũng là Đấng đầy lòng từ bi và hay thương xót ở cùng, thì chúng ta đâu còn sợ gì. Dù người mẹ nào có bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa không bao giờ bỏ chúng ta, vốn là hình ảnh của chính Người (x.St 1,27). Vấn đề là chúng ta đã thực sự nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa chưa? Câu trả lời nằm ở nơi thái độ của chúng ta, đó là có phấn khởi mừng vui hay không.

Nếu như chúng ta chưa thực sự mừng vui thì đó là một trong những dấu chỉ cho biết chúng ta chưa nhận ra Đấng Thánh, Đấng cao cả đang ở giữa chúng ta. Phận phàm hèn, làm thế nào để chúng ta có thể thấy Thiên Chúa, Đấng ngàn trùng chí thánh? Chính Chúa Giêsu đã minh nhiên cho chúng ta chìa khóa vấn nạn. “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Những lời khuyên của Gioan Tẩy Giả cho dân chúng cũng như cho binh lính và những người thu thuế xưa chính là cách thế giúp họ thanh tẩy tâm hồn để nên trong sạch. Và Ngài đã lưu ý rằng không phải cứ cúi mình xuống nhận dấu thanh tẩy mà được thanh sạch, nhưng phải thay đổi đời sống. Sau này chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định với người Pharisiêu đã mời Người dùng bữa rằng không phải do việc tẩy rửa bên ngoài mà làm cho chúng ta nên thanh sạch, nhưng phải đem những cái bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên thanh sạch cho chúng ta (x.Lc 11,37-41).

-Hãy vui mừng vì Thiên Chúa đã rút lại lời kết án. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và vì chúng ta, Người cũng quy tụ những kẻ hư hỏng, người tội lỗi về (x.Soph 3,14-18). Niềm vui của người được tha thứ tội lỗi là niềm vui thật khó tả, hơn nữa, khi đó là một món nợ, vượt quá khả năng chi trả của chúng ta. Một người được thứ tha sẽ trở thành nguyên cớ để nhiều người tội lỗi khác tin tưởng trở về. Bất cứ tội lỗi nào cũng có tính lây nhiễm ít nhiều. Cũng thế và hơn thế nữa, ân phúc tha thứ nào cũng có sức năng động lan tỏa. Đây chính là lý do để ngôn sứ Xôphônia mời gọi chúng ta hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn (Xp 3,14).

-Hãy vui mừng vì Chúa Kitô đã chọn chúng ta, không vì công nghiệp của chúng ta mà chỉ vì tình yêu của Người. Thánh tông đồ dân ngoại đã nói với tín hữu Philipphê rằng nếu tự hào về công trạng theo lề luật, thì ngài có thể hơn rất nhiều người. Nhưng ngài bỏ tất cả đằng sau, ngài chấp nhận mọi thua thiệt, trước một mối lợi lớn là được biết chúa Kitô (x.Pl 3,1-16). “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em…” (Ga 15,16). Vì đã chọn chúng ta nên Chúa Giêsu tự nguyện liên đới với chúng ta cho đến cùng. Người không chỉ làm con chiên gánh lấy tội nhân trần mà còn đón nhận loài người như đàn em đông đúc để thông chia phần phúc gia nghiệp đã hứa ban (x.Ep 1,3-14).

Tuy nhiên, một vấn đề cần làm sáng tỏ đó là niềm vui đích thật được biểu lộ như thế nào? Chắc hẳn đó không phải là những tiếng cười ha hả của những bữa tiệc tùng đầy sơn hào hải vị và rượu bia, và cũng chẳng nhất thiết là trạng thái lâng lâng, ngay sau khi đạt được một thành công trong kinh doanh hay trong thi đấu thể thao…Một niềm vui đích thật đó là tâm trạng của người cảm nhận mình được yêu thương vượt quá mọi công trạng mình đã có, vượt quá mọi khả năng mình đang có hay sẽ có. Tâm trạng này chính là sự bình an tận đáy tâm hồn khiến chúng ta can đảm vượt qua mọi thử thách và gian khổ, đồng thời thúc đẩy chúng ta nỗ lực sống đức ái, nghĩa là biết yêu thương một cách không tính toán, không chỉ với người dễ thương mà còn với người khó thương, với cả những người thù ghét và bách hại chúng ta. Có thể nói rằng các thánh tử đạo là những người đã thể hiện niềm vui đích thực này cách rõ nét.

Nước Trời là vương quốc của tình yêu và của niềm vui đích thật. Chúng ta có thể luận suy chân lý này qua các hình ảnh tiệc cưới mà Chúa Giêsu đã dùng để minh họa về thực tại Nước Trời và các hình ảnh mà Người nói về tình trạng trầm luân đời đời, đó là nơi phải khóc lóc và nghiến răng (x.Mt 22,2; Mt 8,12). Mùa Vọng lại về, một trong những ý nghĩa của Mùa Vọng là chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Chúa nhập thể – nhập thế. Thiên Chúa đã làm người, đã vào trần gian và Người mãi ở với chúng ta cho đến tận thế (x.Mt 28,20).  Nước Trời đang ở giữa chúng ta (x.Lc 17,21). Ước gì bà con lương dân, anh em khác đạo và cả những người tự nhận là vô thần, thấy được niềm vui đích thật nơi Kitô hữu chúng ta, một niềm vui được thể hiện qua sự an bình và tình yêu liên đới trong những chia sẻ cách vô vị lợi. Trăm nghe không bằng một thấy. Thiết tưởng rằng đó cũng là một lời loan báo tin mừng khả tín không thua, mà có khi lại hơn những tổ chức “lễ hội đình đám” bên ngoài trong dịp mừng Chúa Giáng Sinh.

 

.

HÃY NGHE VÀ THỰC HÀNH

Lm. Jos. DĐH.

Mơ ước chung chung ở đời vẫn cho rằng: ăn ngon phải ngủ ngon mới hạnh phúc, làm ra tiền, biết cách sử dụng tiền, thế mới gọi là thành công. Nếu có lụa là nhung gấm đẹp, có vóc dáng chuẩn, lại gặp thợ thiết kế giỏi, người đó đúng là được phúc lộc đất trời ưu đãi. Thời nào cũng vậy: nói ngọt, lọt tới xương, thầy nói hay, trò nghe giỏi, gia đình xã hội tiến triển còn gì tốt hơn, mong muốn được như thế mới ở phạm vi lý thuyết, nếu bao lâu “thầy trò” chưa sống lời hay ý đẹp mà họ đã am tường. Miệng dẻo, tai không dị tật, gọi là một lợi thế, nếu muốn đạt tới lý tưởng trọn vẹn, người ta cần đôi mắt tinh thông và cái đầu sáng suốt, hầu có thể hiểu và sống “cháy bỏng” hơn cho ơn gọi riêng của mình.

Ở trên đời này, người ta muốn có bằng cấp, đều phải nghiêm túc chăm chỉ học tập, và rồi làm sao bạn có thể nghe được, hiểu được vấn đề, nếu không có thầy truyền đạt hướng dẫn ? Cũng chẳng hề có vị thầy nào diễn thuyết hùng biện, cuốn hút, nếu người thầy đó không có kiến thức và một chút kỹ năng về tâm lý truyền đạt. Muốn được gọi là đại gia, người ta chỉ cần có việc làm ổn định, thu nhập cao ; muốn tốt danh hơn lành áo, người ta phải có đời sống trung thực, lưu tâm hơn đến phẩm chất đạo làm người của mình. Xưa kia Gioan đã lắng nghe và hiểu được ơn gọi và sứ mạng của ông ở rừng sâu, ông đã tu thân tích đức để “tiền hô” cho Đấng cứu thế. Rồi từng đoàn người đông đảo, họ đã được thôi thúc đến để nghe Gioan hướng dẫn, chỉ dạy đường đi nước bước, hầu gặp Đấng mà họ đang ngóng trông.

Quy luật ở đời, “tri – hành”, chính là con đường dẫn người ta vượt qua gian khổ để đến hạnh phúc thật: có vay có trả, có nợ có đòi. Có biết mà không sống, thì gọi là nổ, là bom, học giỏi mà không thực hành, thiên hạ mỉa mai nào có oan: nửa thằng, nửa ông ; nửa người nửa ngợm, nửa đười ươi. Kinh nghiệm cho thấy, người ta không thể có bình an thật, khi họ đang làm việc mờ ám, thất đức ; người ta sẽ chẳng cần ai tham mưu tư vấn làm gì nữa, đang khi họ nói gì đều có kẻ vỗ tay, làm việc nào cũng thành công rực rỡ ! Hãy dõi nhìn nơi rừng sâu năm xưa có đủ thành phần: người thu thuế, các quân nhân, đám đông dân chúng tìm đến với Gioan, xin chịu phép rửa thống hối, họ xin Gioan chỉ cho việc phải làm, và họ hoàn toàn tâm phục khẩu phục !

Ở sông Gio-đan, nhiều đối tượng khác nhau tìm đến với Gioan không phải ông đẹp khoẻ, hay ông sẽ chỉ cho cách kiếm tiền, nhưng vì nơi Gioan có một “lực hút”: lưu loát thuyết phục, vì ông ý thức được sứ mạng của ông là dọn đường, chuẩn bị cho Đấng đang tới. Gioan rao giảng bằng đời sống nhiệm nhặt, đầy nhiệt huyết tông đồ, Đấng mà ông tin yêu, Đấng mà nhân loại đang chờ mong. Hãy nghe và hãy thực hành, sẽ mãi là một bài học cho những ai muốn hiểu, muốn sống, muốn cảm nhận rất “siêu nhiên” về sứ mạng được “ơn trên” trao phó. Hãy nghe và đem ra thực hành, kinh nghiệm truyền đạt của Gioan, phương pháp thuyết phục được đám đông của Gioan không phải là bằng cấp, mà bằng cách sống, bằng niềm tin vào Đấng yêu mến ông. Đám đông hôm xưa vô cùng hạnh phúc vì họ được nghe, được thấy, được hiểu, bằng cả mắt xác phàm và mắt tâm hồn như họ đã “tự hỏi trong lòng về Gioan: có phải chính ông là Đức Kitô chăng” ? Họ thích thú vì trăm nghe không bằng một thấy.

Biết bao tâm hồn xưa cũng như nay, họ vẫn tìm kiếm hiền tài qua diện mạo của trời đất, qua dung mạo của thầy tư vấn: khôn ngoan hiện ra mặt, đức độ biểu lộ ra cách sống. Gioan vui và tự tin vì ông có sự khôn ngoan nội tâm, đám đông vui và hạnh phúc vì được nghe, được cảm nghiệm về lần “du hành sám hối” tại hoang địa, tất cả không phải vì ai hay ai giỏi, mà do Đấng họ tin thờ thương yêu ban ơn, chúc phúc cho thao thức của họ. Ơn gọi làm người trước hết và trên hết là lời gọi sống vui sống khoẻ, lời gọi tự nhiên đó, chỉ cần một chút ý thức đến tác động của khôn ngoan khi đầu tư công sức, như thế là họ đã nghe chuẩn, và sẽ biết thực hành đạo làm người. Ơn gọi làm con Chúa, ơn gọi làm công dân của Nước trời, cũng phát xuất từ khôn ngoan của ý chí, tấm lòng, nối kết trong khiêm tốn để lắng nghe và thực hành trọng trách, bổn phận, theo sứ mạng riêng của mỗi người.

Người tín hữu chúng ta đang sống trong lộ trình mầu tím của hy vọng, và rồi chúng ta lại được dẫn tới mầu hồng của yêu thương, qua Gioan Tiền hô, qua tiếng gọi sâu thẳm từ bên trong, chúng ta được mời gọi cụ thể rõ ràng về việc thanh luyện nội tâm, hầu đón nhận ơn bình an, niềm vui trong trắng mà Con Thiên Chúa ban tặng. Cùng với các thánh hiền từ cổ chí kim, cùng với tiền nhân dồi dào kinh nghiệm, chúng ta sẽ không dừng lại ở việc nhìn xem sự hào nhoáng của văn minh thời đại. Sẽ không mở mắt, mở tai, mở trí lòng, để nghe lời hấp dẫn: ngọt như đường cát, mát như đường phèn của thế lực tiền tài danh vọng, nhưng là cùng nghe, cùng vui lên trong tình Chúa tình người của phúc lộc an hoà đang tới. Amen.

 

.

TẠI SAO TÔI PHẢI LÀM VIỆC THIỆN?

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Có đôi khi chúng ta tự hỏi: tại sao mình lại phải cho người này, biếu người kia? Tại sao mình phải phục vụ những người chẳng quen biết với mình?Thực ra, việc cho và nhận đó là một vòng tròn tuần hoàn của đời ngừơi. Con người đã biết nhận thì cũng phải biết cho đi. Tôi vẫn nhớ một bài thơ viết rằng:

Nếu là con chim, chiếc lá,
Thì con chim phải hót ,chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình

Người ta còn ví đời người như dòng sông, luôn trôi đi và chảy xuôi ra biển. Nhưng dòng tuần hoàn sẽ đến một lúc từ biển bao la sẽ rót vào những dòng sông mênh mông tràn đầy, mạch luân lưu không ngơi nghỉ ấy chính là cuộc sống.

Nhận và cho là sông và biển luôn cho và nhận với nhau. Thế nên, có ai đó nói rằng: “Tôi học cách cho đi không phải vì tôi đã có quá nhiều, mà vì tôi đã biết ý nghĩa và cảm giác của việc cho đi”.Khi chúng ta cho đi những điều tốt đẹp thì chúng ta sẽ nhận được sự bình yên trong tâm hồn. Khi chúng ta cho đi từ tình yêu thương thì chúng ta sẽ nhận được hạnh phúc niềm vui vì cuộc đời mình có ý nghĩa

Trên môt chuyến xe lửa đang chạy trên đường cao tốc, một người đàn ông không cẩn thận làm rơi một chiếc giầy mới mua ra ngoài cửa sổ, mọi người chung quanh đều cảm thấy tiếc cho ông. Bất ngờ, ông liền ném ngay chiếc giầy thứ hai ra ngoài cửa sổ đó. Hành động này khiến mọi người sửng sốt, thế là ông bèn từ tốn giải thích: “Chiếc giầy này bất luận đắt đỏ như thế nào, đối với tôi mà nói nếu chỉ còn một chiếc thì nó không còn có ích gì nữa, nếu như có ai có thể nhặt được đôi giày, nói không chừng họ còn có thể mang vừa nó thì sao!”.Người đàn ông đó sau này đã trở thành lãnh tụ được yêu mến của đất nước Ấn Độ. Tên ông là Ganhi.

Phụng vụ Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng mời gọi chúng ta hãy vui lên. Vui lên vì Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Vui lên vì giờ hồng phúc đã đến với con người chúng ta. Và niềm vui này càng được nhân lên khi Gioan mời gọi mọi thành phần hãy làm điều thiện, điều tốt cho anh em. Gioan bảo đám đông dân chúng hãy làm cho xã hội vui lên qua việc thực thi bác ái một cách quảng đại với tha nhân: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có ; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Xã hội sẽ vui hơn nếu con người biết sống công bình với nhau. Cuộc đời sẽ vui hơn nếu người nghèo được quan tâm, được giúp đỡ. . . Xã hội sẽ hòa bình trật tự nếu mọi người biết tôn trọng phẩm giá và quyền lợi của nhau thay cho những hà hiếp, áp bức làm đau lòng nhau.  . .

Có ai đó nói rằng: cuộc sống vốn đầy khổ đau rồi, đừng chồng chất gánh nặng lên nhau. Hãy sống làm vui lòng nhau hơn là đầy đọa nhau. Không ai lại vui khi nhìn thấy người khác khóc. Tại sao chúng ta không đối xử nhân ái với nhau thay vì cứ nói xấu, hay tìm cách loại trừ nhau? Làm đau lòng nhau đâu khiến ta vui lên?

Trong năm mục vụ với chủ đề đồng hành với những gia đình khó khăn như mời gọi chúng ta hãy thể hiện tình yêu một cách cụ thể là nhường cơm xẻ áo cho người đói ăn. Hãy tạo tình liên đới khi mời một gia đình nghèo hay người tha hương nghéo khó cùng ăn cơm với gia đình trong ngày Noel. Hãy sống khoan dung khi tha nợ cho những người bất hạnh đang gặp rủi ro, tai nạn trong làm ăn. Hãy sống tình tha thứ thay cho những đố kỵ ghen tương. Hãy xây dựng hòa bình thay cho những xung đột, hiềm khích lẫn nhau . . .

Xin cho đời sống của chúng ta luôn mang lại niềm vui cho nhân thế qua việc bác ái, phục vụ . Xin cho lời loan báo tình thương của chúng ta luôn đi đôi với việc làm để muôn dân sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, và cùng ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa. Amen

 

.

MỘT ĐỜI MÀU HỒNG TƯƠI

Lm. Bosco Dương Trung Tín

 “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” ( Pl 4,4).

Hôm nay là Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng. Còn gọi là Chúa Nhật HỒNG. Hôm nay sẽ đốt cây nến màu HỒNG và Chủ Tế cũng mặc áo màu HỒNG. Màu hồng là màu của niềm vui; màu của hạnh phúc; màu của tình yêu.

Thánh Phao-lô kêu gọi: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”. Nghĩa là ta hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa chứ không phải của con người hay của thế gian. Niềm vui của con người, của thế gian, là khi ta có nhiều tiền lắm của; ta được vinh hoa, phú quí. Quả thật niềm vui này chóng qua và vô bổ. Chúng không làm cho ta an bình và hạnh phúc; trái lại chúng làm cho ta bất an và bất hạnh.

Bất an vì ta luôn nơm nớp lo sợ mất tiền mất của; sợ người ta chôm chỉa; sợ người ta giành giật vinh hoa, phú quí của ta. Bất hạnh, vì tiền của không mua được hạnh phúc. Thực tế cho thấy, càng lắm của nhiều tiền lại càng sinh nhiều vấn đề, gây chia rẽ và bất đồng. Xưa kia nghèo khổ thì đồng lòng, chung sức; nay giàu sang thì mỗi người một hướng, ganh tị, hơn thua.

Có ai giàu mà hạnh phúc bao giờ. Có ai hạnh phúc mà giàu có bao giờ. Hạnh phúc và giàu có thường là tỉ lệ nghịch chứ không tỉ lệ thuận. “Nhiều” hạnh phúc thì “ít” giàu có và “nhiều”giàu có thì “ít” hạnh phúc. Phải chọn một trong hai. Chỉ có một chứ không có cả hai. Đó như là qui luật bất thành văn vậy.

Niềm vui trong Chúa sẽ tồn tại mãi, làm cho ta sống trong bình an và hạnh phúc. Làm sao ta có được niềm vui trong Chúa đây ? Thánh Phao-lô nói: “Vui lên anh em, sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa, rộng rãi, vì Chúa đã gần đến” (x. Pl 4,4,5). Quả thật, có niềm vui thì ta mới sống hiền hòa và rộng rãi được. Ai sống hiền hòa và rộng rãi, chứng tỏ người đó có niềm vui trong Chúa. Nếu ta chỉ có niềm vui của con người, của thế gian, ta không sống hiền hòa và rộng rãi được đâu, trái lại ta sẽ hùng hổ giữ danh, giữ của và sợ Chúa đến lắm.

Càng chính xác hơn, đối với người đang yêu. Đây là tình yêu đích thực. Mà tình yêu đích thực là tình yêu trong Chúa; tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là tình yêu” mà (x.1Ga 4,8). Ai đang sống trong tình yêu thì người đó sống hiền hòa và rộng rãi. Họ thấy cái gì cũng đáng yêu, dễ yêu, dễ mến. Nhất là những gì thuộc về người yêu của họ. Khi yêu rồi thì cái gì cũng đẹp hết. Thật là chí lý !!!!!!!! Người ta nói không sai: “Khi yêu củ ấu cũng tròn; khi ghét thì quả bồ hòn cũng méo”.

Khi yêu rồi thì cái gì cũng màu hồng; đời là màu hồng; tâm hồn là màu hồng; cứ phơi phới; cứ thấy vui vui làm sao ấy !!!! Sống trên mặt đất mà cứ như đi trên mây vậy. Niềm vui đó xuất phát từ con tim; từ cõi lòng; từ Thiên Chúa. Họ không phải là đeo kính hồng, mà họ có trái tim hồng; có tâm hồn màu hồng. Họ không giữ tiền, giữ của mà cho đi tất cả những gì họ là, những gì họ có. Họ cho đi tất cả tâm tình, cuộc sống; họ dành tất cả những tâm tư, tình cảm cho người họ yêu.

Có thể nói yêu và hạnh phúc là tỉ lệ thuận. Càng yêu bao nhiêu thì càng hạnh phúc bấy nhiêu. Và càng hạnh phúc bao nhiêu thì càng yêu bấy nhiêu. Nhất là yêu nhau mà lại ở xa nhau. Khi gần đến lúc được gặp nhau thì không có hạnh phúc nào bằng. Yêu nhau mà phải sống xa nhau, quả là một “cực hình”. Nhưng “cực hình” này có “cực” một chút mà “hình” như hạnh phúc dâng trào. Cứ như “hình” với bóng, lúc nào cũng có nhau trong tư tưởng, trong con tim, dù xa hay gần. Có thể nói “Cực hình” này là thiên đàng chứ không phải hỏa ngục; là “Cực hình” hạnh phúc.

Thánh Phao-lô nói tiếp: “Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (x. Pl 4,6).

Không lo lắng, ta sẽ có bình an và niềm vui. Lo lắng đây là lo lắng về tiền của, danh vọng. Ta đừng lo lắng về những thứ đó.

Trong mọi hoàn cảnh, nghĩa là dù vui hay buồn; dù khỏe hay ốm; dù thất bại hay thành công; dù đủ hay thiếu, ta hãy cầu khẩn, van xin và tạ ơn Chúa. Những gì ta lo lắng, ta muốn, ta ước ao, ta hãy giãi bày trước Thiên chúa. Những khi ta buồn, ta ốm, ta thất bại, ta thiếu thốn, ta hãy van xin Chúa với tấm lòng chân thành và tha thiết. Những khi ta vui, ta khỏe, ta thành công, ta no đủ, ta hãy tạ ơn Chúa.

Làm được như thế, chắc chắn ta sẽ có niềm vui trong Chúa và có sự bình an của Chúa.

Thứ đến, “Ai có hai áo, thì chia cho người không có. Ai có gì ăn thì cũng làm như vậy” (x. Lc 3,11).Đó là niềm vui chia sẻ.

Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định” (x. Lc 3,13). Nghĩa là những gì đã được ấn định và quyết định thì cứ thế mà theo, mà làm. Đó là niềm vui xin vâng.

Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người; hãy bằng lòng với đồng lương của mình” (x. Lc 3, 14). Nghĩa là bằng lòng với những gì mình có, mình là. Mình thế nào thì mình chấp nhận mình như thế; không bắt chước ai; không so bì với ai; không ghen tị ai, cũng như không ghen ghét ai. Như thế ta sẽ không hà hiếp ai, không chiếm đoạt của ai, vì mình cảm thấy những gì mình có là đủ. Đó là niềm vui chấp nhận.

Quả thực, khi ta vui vẻ chấp nhận tất cả; ta vui vẻ xin vâng theo thánh ý Chúa; khi ta vui lòng chia sẻ những gì mình có thì ta sẽ sống hiền hòa, rộng rãi; ta sống trong bình an và hạnh phúc. Điều đó, làm cho Chúa vui mừng và hoan hỷ. Chúa sẽ lấy tình thương của Ngài mà đổi mới ta; thánh hóa ta, làm cho ta nên thánh nên thiện.

Đối với người đang yêu, họ chấp nhận tất cả để yêu và được yêu. YÊU là trên hết, họ không hà hiếp nhau nhưng tôn trọng và nâng niu. Họ “nâng nhau như nâng trứng; họ hứng nhau như hứng hoa”. Họ chẳng phải dùng mánh khóe hay mưu mô gì để chiếm đoạt nhau cả. Tình yêu đã chiếm đoạt họ và họ đã thuộc về nhau, không gì có thể tách họ ra được. Trời có gầm, họ cũng không nhả. Họ bằng lòng chấp nhận nhau với tất cả con người, khả năng và tính khí của nhau.

Họ vâng nghe nhau. Cái gì tốt, cái gì hay, cái gì đẹp họ bàn bạc, họ chia sẻ; không có chuyện hơn thua; cũng không đòi nhau phải như thế này, phải như thế kia mới được. Không. Có làm sao thì họ chấp nhận như vậy.Họ đồng lòng; họ cùng chung một ý hướng, để xây dựng một mối tương quan tốt đẹp; để xây dựng một mối tình chung thủy và bền vững. Mối tình đó làm cho Chúa vui lòng và Chúa sẽ lấy TÌNH YÊU của Ngài mà thánh hóa và đổi mới TÌNH YÊU của họ, làm cho họ luôn bình an, luôn vui mừng và luôn hạnh phúc.

Vậy, ta hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa và đừng lo lắng gì cả, để ta ta luôn vui vẻ chấp nhận tất cả; xin vâng tất cả và chia sẻ tất cả. Hôm nay là ngày vui của ta, ngày hạnh phúc của ta và thế là ngày nào ta cũng vui, ngày nào ta cũng hạnh phúc.

Hãy YÊU đi, hãy YÊU với hết tấm chân tình của mình đi, thì cuộc sống ta sẽ là “bể vui”; cuộc đời ta sẽ là “bể hạnh phúc”. Ta sống trên trần gian này là để YÊU; một đời để YÊU; một đời hạnh phúc; một đời màu HỒNG TƯƠI.

 

.

CHÚA NHẬT THỨ 3 MÙA VỌNG_C

Jorathe Nắng Tím

Tất cả các bài đọc và Tin Mừng hôm nay đều diễn tả một niềm vui khôn tả trên đường đi gặp Thiên Chúa, là Thiên Chúa cứu độ. Nơi Ngài, không còn sợ hãi, vì Ngài là sức mạnh (Is 12, 2), và niềm vui bật thành lời ca tiếng hát, câu hò chúc tụng Thiên Chúa đang ở giữa dân Người sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới muôn dân.

Thực vậy, bầu khí chúa nhật thứ ba muà vọng thật tưng bừng, phấn khởi và ngôn sứ Xôphônia đã hoan hỷ kêu gọi trong bài đọc thứ nhất: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi, nhà Ít-ra-en hỡi, vì án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại” (Xp 3,14-15). Quả thực, không gì hạnh phúc cho can phạm khi án toà được hủy bỏ, lệnh tống giam được xé đi, và Đức Chúa đã đến như vị cứu tinh, người giải phóng, Đấng Cứu Độ để đem hạnh phúc cho dân Người.

Thánh Phaolô thì dường như xuất thần với niềm vui Chúa đã đến gần, và kêu gọi mọi người vui lên trong Chúa bằng sống hiền hoà, quảng đại, chân thành, tử tế, nhất là cầu nguyện và kết hợp với Đức Giêsu Kitô (x. Pl 4, 4-9).

Cũng trong niềm vui Đức Chúa đã đến gần, Tin Mừng Luca tiếp tục triển khai lệnh lên đường của Thiên Chúa đã được Gioan Tẩy Giả loan báo, kêu gọi. Trả lời câu hỏi của đám đông : “Chúng tôi phải làm gì đây?” (Lc 3, 10), Gioan đã trình bầy công việc phải làm của người đáp lời kêu gọi dọn đường, lên đường, sám hối của ông. Theo Gioan, có ba công việc phải làm :

1. Chia sẻ cơm ăn, áo mặc với anh em : 

Gioan không úp mở xa gần, nhưng bộc trực, huỵch toẹt: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có ; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3, 10). Đơn sơ, ngắn gọn, nhưng thiết thực và hữu hiệu: chia sẻ cơm áo với người thiếu thốn chung quanh. Người đói ăn, thiếu mặc thì khắp nơi, không tìm cũng thấy, không mong cũng gặp, nên ai cũng có cơ hội để chia sẻ những gì mình có, cho đi những gì mình dư thừa cho người anh em thiếu thốn, đang cần được giúp đỡ.

Ngay từ buổi đầu, nghiã là trước khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng, Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô của Ngài đã nắm bắt chính xác đòi hỏi tất yếu của Tin Mừng, đó là Yêu Thương, Chia Sẻ. Là người đi trước dọn đường, Gioan đã thấy con đường Đức Giêsu mở ra, cũng là con đường Ngài đi và bất cứ ai muốn theo Ngài cũng sẽ phải đi : con đường Bác Ái, con đường Xót Thương, con đường Chia Sẻ.

2. Công Bình trong ứng xử :

Công việc thứ hai phải làm là công bình : “Đừng đòi hỏi gì qúa mức đã ấn định” (Lc 3,13). Đòi hỏi ai điều gì quá mức quy định họ phải làm là vi phạm luật công bình, bởi mỗi người có trách nhiệm, nhưng cũng có quyền lợi đi đôi với trách nhiệm ấy. Đòi hỏi ai làm qúa trách nhiệm là bất công với họ, cũng như bắt người khác làm quá nhiều, quá sức, quá độ, quá khả năng, mà không cho quyền lợi tương xứng là bóc lột, vi phạm luật công bằng.

Công bình không chỉ đòi chúng ta tôn trọng quyền sở hữu, mà còn tôn trọng quyền sống làm người của người khác, và trong mọi trường hợp, công bình luôn là nền tảng của bác ái. Không thể có bác ái, không thể quảng đại sẻ chia, nếu thiếu phân minh, công bình. Như thế, chẳng khác nào người tham nhũng đi làm từ thiện bằng tiền cắc của khối tiền tham những kếch xù. Việc từ thiện đó tưởng do lòng bác ái, nhưng thực chất chỉ là trò giả hình gian xảo, điếm đàng, lừa lọc, cốt che mắt phàm nhân, nhưng sao che được mắt Thiên Chúa ?

Vì thế, công bình rất cần thiết và không thể thiếu trong đời sống người lữ hành theo Đức Gêsu trên đường Sự Thật và Yêu Thương, bởi cả sự thật và yêu thương đều không thể thiếu công bình như nền tảng, bệ phóng.

3. Không bạo lực :

Công việc thứ ba Gioan khuyên phải làm, đó là : “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta” (Lc3,14). Hà hiếp, tống tiền là đàn áp, trấn lột, và tất nhiên để thực hiện việc hà hiếp, tống tiền, người ta cần xử dụng bạo lực. Có thể là bạo lực ngôn từ, bạo lực chân tay, bạo lực vu khống, bạo lực gieo tin đồn thất thiệt, bạo lực vũ khí… Cách nào của bạo lực thì cũng là bạo lực, là vi phạm luật giao thông của Con Đường Sự Thật và Tình Yêu, bởi làm tổn thương con người, vì con đường này Thiên Chúa đã lập nên cho hạnh phúc của con người.

Gioan Tẩy Giả đã hiểu rõ hơn ai hết, vì ngài là Tiền Hô của Đức Giêsu, giá trị của sự hiền lành, không bạo lực, bởi chính Sự Thật sẽ giải giới mọi bạo lực, vì Sự Thật có sức mạnh giải phóng toàn diện, không để con người chìm đắm trong u mê, tăm tối của gian dối, lầm lạc là nguyên nhân đưa đến mâu thuẫn, chia rẽ, đố kỵ, tạo cơ hội cho bạo lực chiếm sân, can thiệp. Sự hiền lành, nhu mì cũng rất cần thiết để sống Yêu Thương, vì người có lòng yêu mến anh em mình, sẽ không thể chung sống với bạo lực, vì bạo lực là kẻ thù của Tình Yêu.

Và để đám đông hiểu rõ hơn đòi hỏi cấp bách phải thay đổi não trạng, thay đổi nếp nghĩ cũ, thay đổi lối sống vô độ, gian ngoa, thù hận, Gioan Tẩy Giả cho mọi người biết thêm : “Tôi rửa anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3,16). Tuyên bố này xác định thật rõ ràng, chính xác : Anh em phải khẩn trương thay đổi, vì Đấng đến sau tôi cao cả hơn tôi rất nhiều, nên đòi hỏi còn gắt gao nhiều lần hơn, bởi “tay Người sẽ cầm nia ria sạch lúa trong sân : thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Lc 3,17).

Tóm lại, Thiên Chúa muốn chúng ta đón rước Ngài bằng bước đi với Ngài trên con đường Sự Thật và Tình Yêu, bằng sống đời công bình, bác ái, tẩy chay bạo lực nhưng xây dựng hoà bình. Trên con đường có Chúa đồng hành và chờ đón, ta nhận được Niềm Vui ơn Cứu Độ, và có Chúa là nguồn Bình An (Pl 4, 9). Chính nguồn “bình an vượt lên trên mọi hiểu biết” (Pl 4,7), sẽ giữ lòng trí chúng ta được kết hợp với Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ là Sự Sống, Sự Thật, và Tình Yêu đang đến trong nhà chúng ta.

 

.

CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG_C

Lm. Antôn

 

 

.

.

NIỀM VUI ĐÍCH THỰC

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Ngày 24 tháng 11 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố Thông điệp Niềm Vui của Tin Mừng. Trong Thông điệp này, vị Chủ chăn tối cao của Giáo Hội công giáo dành một phần quan trọng để diễn tả niềm vui của người tín hữu. Đức Thánh Cha đã khởi đi từ những chứng từ của Cựu ước và Tân ước để chứng minh niềm vui là sứ điệp căn bản của Kinh Thánh. Niềm vui cũng là phần thưởng Chúa ban cho những ai tin cậy Ngài. Trong phần mở đầu, Đức Thánh Cha đã viết: “Tôi kêu mời mọi Kitô hữu ở khắp nơi, ngay lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ mới mẻ với Đức Giêsu Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình; tôi xin tất cả anh chị em không ngừng làm điều này mỗi ngày. Không ai được nghĩ rằng lời mời gọi này không phải dành cho mình, vì không một ai bị loại trừ khỏi niềm vui mà Chúa Giêsu đem đến” (Số 3). Ngài cũng phê phán những tín hữu “sống đời mình như chỉ có mùa Chay mà không có mùa Phục sinh” (Số 6).

Khía cạnh hân hoan vui mừng của Đức tin đã bị nhiều người quên lãng. Có thể đây là ảnh hưởng của một lối dạy giáo lý khiếm khuyết, nhấn mạnh đến sự thưởng phạt, và trình bày Thiên Chúa như một vị thần nghiêm khắc khô khan. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Ngài đến trần gian để đem niềm vui cho con người. Nội dung Tin Mừng chính là niềm vui, là Bonne Nouvelle, tức là tin tốt.

Người Kitô hữu sống trong niềm vui, vì có Chúa luôn hiện diện. Ngôn sứ Sôphônia đã ca tụng Chúa với tâm tình hân hoan. Có Đức Chúa hiện diện, không còn chi phải sợ, kể cả tang tóc, tai ương, bạo lực và ngay cả sự chết. Không chỉ vị ngôn sứ, mà Chúa cũng « nhảy mừng » trong ngày lễ hội hân hoan. Cuộc sống này đáng yêu biết bao, vì Chúa hiện diện và chia sẻ niềm vui với con người. Có Chúa là có tất cả, vì Ngài là nguồn hạnh phúc.

Tuy vậy, để được hưởng trọn vẹn niềm vui Chúa ban, chúng ta phải sửa soạn tâm hồn. Một lần nữa, sứ điệp mà Chúa muốn nhắn gửi chúng ta qua Gioan Baotixita được nhắc lại. « Tôi phải làm gì ? », đó là câu hỏi của các binh sĩ, những người thu thuế và cả đoàn dân đông đảo đang xếp thành hàng dài để đến với ông bên bờ sông Giorđanô. Gioan Tẩy giả như một thày thuốc bắt mạch và kê đơn cho từng con bệnh, đồng thời đưa ra những lời khuyên cụ thể để giúp họ được chữa lành. Để chuẩn bị đón Chúa vào tâm hồn nhân dịp lễ Giáng Sinh, mỗi chúng ta cũng tự đặt câu hỏi : « Tôi phải làm gì đối với Chúa và đối với anh chị em xung quanh? ». Câu hỏi này giúp ta xác định mình đang đi về đâu, đồng thời mời gọi chúng ta trở về với Chúa để được hưởng trọn vẹn niềm vui Chúa ban cho những ai yêu mến Ngài. Đời sống và lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là gương mẫu cho chúng ta về sự khiêm nhường. Khi nói về Đấng Cứu độ, ông tự coi mình chỉ là đầy tớ, không xứng đáng cởi quai dép cho Người. Trước những người đang tò mò đặt câu hỏi về thân thế của mình, ông khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Sa mạc là nơi vắng bóng người, chỉ có nắng và gió. Lời nói trong sa mạc dễ bị mất hút trong khoảng không gian mênh mông. Gioan Tẩy giả kêu gọi mọi người sám hối theo lệnh truyền của Chúa. Chứng từ khiêm tốn của ông đã lay động con tim nhiều người và thúc đẩy họ đến dìm mình trong dòng nước để được ơn tha thứ.

Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau nơi hang đá máng cỏ. Trời với đất nên một nơi Hài Nhi Giêsu. Đón nhận Chúa Cứu Thế là đón nhận niềm vui. Điều này được chứng minh nơi Đức Maria trong ngày truyền tin. Ngay vừa khi được Ngôi Lời ngự đến trong lòng, Mẹ đã ca lên bài ca tạ ơn tuyệt vời (Magnificat). Những người chăn chiên ở đồng quê Belem vui mừng vì được chiêm ngưỡng Đấng Cứu Thế, họ tôn vinh ca tụng Chúa trong niềm hân hoan vui mừng (x. Lc 2,20). Nối bước Đức Mẹ và các mục đồng, mỗi tín hữu chúng ta cần phải cảm nhận niềm vui trong đời sống Đức tin. Thánh Phaolô khuyên chúng ta, dầu cuộc đời này còn nhiều truân chuyên đau khổ và phong ba bão táp, chúng ta vẫn giữ được cho mình niềm vui, vì Chúa gần đến. Không phải Chúa gần đến với hình hài một trẻ thơ ở hang đá Belem năm xưa, nhưng Chúa đang đến với chúng ta mỗi ngày mỗi phút mỗi giây trong cuộc đời.

“Tôi phải làm gì?”. Đó là câu hỏi của nhiều người đặt ra cho Thánh Gioan Tẩy giả. Đó cũng phải là câu tự vấn của mỗi chúng ta trước mặt Chúa trong khi chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Bởi lẽ, những tâm hồn chứa đầy tham vọng, chẳng còn chỗ cho Người ngự đến. Những ai khiêm cung đón Chúa sẽ được niềm vui đích thực, vì Người là Đấng Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

 

.

CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Khi nghe thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng, hàng đoàn người lũ lượt kéo đến xin chịu phép rửa ăn năn sám hối. Hơn thế nữa, họ còn muốn thay đổi cuộc đời nên ai cũng hỏi thánh nhân: “Chúng tôi phải làm gì?”. Thái độ của họ thành khẩn, đơn sơ, hiểu biết và đầy quyết tâm. Để trả lời, thánh nhân đưa ra những hướng dẫn thật cụ thể. Đó là:

Phải làm những việc cụ thể. Hai thái độ cơ bản phải có là công bình bác ái.Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Như thế, bác ái không phải là bố thí những gì dư thừa, nhưng phải là chia sẻ trong tinh thần “nhường cơm sẻ áo” “hạt gạo cắn đôi”. Chia cả những gì mình đang cần thiết. Trong tinh thần huynh đệ. Trong tinh thần yêu người khác như chính mình. Cơm ăn áo mắc là những gì rất cụ thể thiết thực và vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể chia sẻ được. Chỉ cần muốn là có thể làm được. Công bình cũng không phải là điều gì quá phức tạp. Chỉ đơn sơ giữ đúng luật pháp: nhân viên thu thuế “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định”. Và khi thi hành luật pháp binh lính phải có lòng nhân ái chứ đừng cậy quyền thế áp bức và nhất là bóc lột người khác: “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta”. Tuy đơn sơ, thiết thực nhưng lại rất quan trọng để được ơn cứu độ.

Phải làm trong đời sống cụ thể. Những việc cụ thể đó không phải tìm những nơi xa xôi mới thực hiện được. Mỗi người hãy thực hiện công bình bác ái trong đời sống thường ngày của mình, với những người sống chung quanh mình. Thánh nhân không kêu gọi người ta phải ra khỏi môi trường cũ. Ngài chỉ kêu gọi người ta từ bỏ nếp sống cũ. Người thu thuế cứ thu thuế. Binh lính cứ làm nhiệm vụ của binh lính. Nhưng làm với tinh thần mới. Điều quan trọng không phải là đổi mới nơi ở, nhưng là đổi mới chính mình, đổi mới ý nghĩ, đổi mới lời ăn tiếng nói, đổi mới việc làm. Tục ngữ có nói: “Dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi thì bạn vẫn chỉ là con người cũ”. Cứ ở nhà mà dám đổi mới là ta đã đi những bước rất xa, sẵn sàng gặp được Chúa và lãnh nhận được ơn cứu độ.

Những người Do Thái thời Thánh Gioan Tẩy Gỉa thực lòng mong chờ Chúa đến. Nên đã hỏi ngay những việc cụ thể để làm. Và khi nhận được lời khuyên của thánh nhân, họ đã thực hành ngay tức khắc. Vì thế họ đã gặp được Chúa. Hôm nay ta cũng tích cực sửa chữa đời sống theo tinh thần công bình và nhất là theo tinh thần bác ái. Biết sống tinh thần chia sẻ. Dám cho đi cả những gì cần thiết. Mẹ Têrêsa Calcutta dạy ta: hãy cho đi cho đến khi cảm thấy đau đớn xót xa, thì sự cho đi mới thực sự có ý nghĩa. Biết cho đi như thế, chắc chắn ta sẽ gặp được Chúa.

Ta luôn bất bình với thế giới chung quanh. Ta mong ước đổi mới thế giới. Hãy nghe lời Thánh Gioan Tẩy Giả, đừng đòi hỏi người khác đổi mới nếu chính mình không đổi mới. Hãy đổi mới chính mình trước, rồi mọi người sẽ đổi mới. Khi mọi người đổi mới, thế giới sẽ đổi mới. Hãy bắt đầu sống tốt. Rồi mọi sự và mọi người quanh ta sẽ trở nên tốt. Sống tốt chính là bắt đầu thay đổi thế giới. Sống tốt chính là góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con bắt đầu cuộc đời mới ngay từ ngày hôm nay, để con được gặp Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Chia sẻ khác với bố thí thế nào? Thánh Gioan Tẩy Giả đòi ta chia sẽ hay bố thí?
  2. Bạn có ước mong thế giới đổi mới nên tốt hơn không? Muốn thế bạn phải làm gì?
  3. Bạn có mong ước Chúa đến với mọi người không? Muốn thế bạn phải dọn đường cho Chúa như thế nào?

 

.

LOAN BÁO LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cuộc đời thật vui khi con người sống yêu thương nhau. Tình yêu sẽ giúp người ta sáng tạo ra muôn nghìn cách để làm vui lòng nhau. Mỗi nghĩa cử yêu thương sẽ mang lại cho đời muôn vàn nụ cười của sự mãn nguyện hạnh phúc.
Có một lần đến quán cơm Nghĩa Tình ăn cơm giá 5.000đ với thợ lao động. Tôi nhìn thấy trên khuôn mặt những người nghèo là một nụ cười hạnh phúc vì được ăn ngon và no. Vì ở đây cơm được bao no với cơm thịt, cơm cá thật phong phú. Đặc biệt ở đây còn có “Ngày thứ năm hạnh phúc”. Trong ngày này tất cả các món như: phở, hủ tíu, bún bò, bún bò huế… cũng đồng giá là 1.000 đồng/1 tô và mọi người ăn bao nhiêu tùy thích.
Nếu tình cờ đi ngang qua các bệnh viện, các nơi có đông những công nhân nghèo chúng ta cũng thấy rộ lên niềm vui trên khuôn mặt những người nghèo khi nhận được những chén cháo tình thương, những bát cơm nhân ái . . .
Và như vậy, nếu xã hội có nhiều người thiện tâm làm việc thiện, luôn quảng đại dấn thân cho mọi hạng người cùng đinh là chúng ta đang làm cho xã hội vui lên, nhất là cho những phận người bất hạnh vui lên.
Phụng vụ Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng mời gọi chúng ta cùng vui lên. Vui lên vì Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Vui lên vì giờ hồng phúc đã đến với con người chúng ta. Và niềm vui này càng được nhân lên khi Gioan mời gọi mọi thành phần hãy làm điều gì đó tốt cho anh em. Gioan bảo đám đông dân chúng hãy làm cho xã hội vui lên qua việc thực thi bác ái một cách quảng đại với tha nhân: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có ; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Xã hội sẽ vui hơn nếu con người biết sống công bình với nhau. Cuộc đời sẽ vui hơn nếu người nghèo được quan tâm, được giúp đỡ. Xã hội sẽ hòa bình trật tự nếu mọi người biết tôn trọng phẩm giá và quyền lợi của nhau thay cho những hà hiếp, áp bức làm đau lòng nhau.  . .
Có ai đó nói rằng: cuộc sống vốn đầy khổ đau rồi, đừng chồng chất gánh nặng lên nhau. Hãy sống làm vui lòng nhau hơn là đầy đọa nhau. Không ai lại vui khi nhìn thấy người khác khóc. Tại sao chúng ta không đối xử nhân ái với nhau thay vì cứ nói xấu, hay tìm cách loại trừ nhau? Làm đau lòng nhau đâu khiến ta vui lên?
Thế nên, điều quan yếu là hãy làm vui lòng nhau để gây tiếng cười cho nhân thế. Hãy thực thi lòng nhân ái trong Năm Lòng Thương Xót. Hãy thể hiện tình yêu một cách cụ thể chia cơm cho người đói ăn. Hãy tạo tình liên đới khi mời một gia đình nghèo hay di dân cùng ăn cơm với ta. Hãy sống khoan dung khi tha nợ cho những người bất hạnh đang gặp rủi ro, tai nạn trong làm ăn. Hãy sống tình tha thứ thay cho những đố kỵ ghen tương. Hãy xây dựng hòa bình thay cho những xung đột, hiềm khích lẫn nhau . . .
Đó là cách chúng ta loan báo Lòng Thương Xót Chúa cho anh em. Đó chính là lời chứng hùng hồn cho tình yêu vô biên của Thiên Chúa mà chúng ta đã được hấp thụ, uốn nắn lên người loan báo tình thương.
Xin cho đời sống của chúng ta luôn mang lại niềm vui cho nhân thế qua việc bác ái, phục vụ . Xin cho lời loan báo tình thương của chúng ta luôn đi đôi với việc làm để muôn dân sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, và cùng ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa. Amen.

 

.

SỐNG VUI VÌ BIẾT MÌNH ĐƯỢC YÊU THƯƠNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy lo âu, sợ hãi, buồn chán. Cuối tháng 11 vừa qua, quân khủng bố IS đã đánh bom vào nhiều mục tiêu tại Paris, khiến hơn 200 người chết và hàng trăm người bị thương. Mục đích của bọn khủng bố là gieo sợ hãi, bất an cho thế giới, khiến cho nhiều người sợ không dám đến chỗ đông người. Tại Việt Nam, kỳ họp Quốc Hội vừa qua đã khiến dư luận trong nước nóng lên về vấn đề an toàn thực phẩm. Một đại biểu đã nói : Chưa bao giờ tại Việt Nam, con đường từ dạ dày đến nghĩa trang lại gần như hiện nay. Từ đó, báo chí đặt câu hỏi : Vậy ăn gì để khỏi chết, khỏi bị hoá chất, ung thư ? Vấn đề này gây nhiều lo lắng cho xã hội, biết tin ai, biết ăn gì cho an toàn. Trong đời sống xã hội cũng còn nhiều vấn đề khác gây lo lắng, sợ hãi cho người dân, chẳng hạn như tình trạng an toàn giao thông. Mỗi khi lấy xe ra đường, mọi người đều mang tâm lý lo sợ, không biết mình có tự về được đến nhà hay phải có người khiêng về ? Bên cạnh đó còn những vấn đề liên quan đến chính trị, kinh tế, văn hoá, trật tự xã hội cũng đang là nỗi băn khoăn của nhiều người. Tất cả những điều đó khiến con người cảm thấy bất an, buồn chán và không có niềm vui.

Trong hoàn cảnh u buồn lo sợ bởi thế giới và xã hội ngày nay, Lời Chúa trong các bài đọc Chúa nhật thứ III Mùa Vọng lại gợi lên cho chúng ta ngập tràn niềm vui và chỉ cho chúng ta cách sống để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.

Tiên tri Sôphônia cho thấy lý do phải vui mừng, đó là vì con người được Thiên Chúa yêu thương và tha thứ. Như một tù nhân được ân xá, như kẻ có tội được thứ tha, Thiên Chúa cũng đã tha thứ cho dân Người khỏi những ngỗ nghịch mà họ đã xúc phạm đến Chúa. Ngài không ra tay trừng phạt, nhưng trái lại, Ngài đến ở giữa họ để kết bạn với họ, để yêu thương họ.

Cũng qua tiên tri Sophonia, Thiên Chúa còn khẳng định : Khi Thiên Chúa là Đức Vua ở giữa dân Người thì họ không còn phải lo âu, sợ hãi ; không một tai ương từ thiên nhiên hoặc những khủng bố bách hại nào có thể làm cho họ sợ hãi, kinh hoàng, vì Thiên Chúa đang ở giữa họ để bảo vệ, bênh đỡ họ. Ngài không chỉ là Đấng bênh vực chở che, mà Thiên Chúa còn là Vị Cứu Tinh, là nguồn vui cho con người, Ngài lấy tình yêu thương mà đổi mới con người. Vì thế, niềm vui mà chúng ta được mời gọi đón nhận hôm nay là chính Thiên Chúa. Nhưng để có được niềm vui đó, chúng ta phải có một tâm hồn ngay thẳng, một lương tâm trong sáng, một đời sống không gian dối. Nhưng quan trọng hơn nữa là nhận ra mình là kẻ được Thiên Chúa yêu thương.

Tin Mừng Luca cho thấy, sau khi nghe Gioan rao giảng về sự sám hối, chuẩn bị tâm hồn đề đón Đấng đến sau ông, thì dân chúng đã lũ lượt đến với ông để xin thanh tẩy, bày tỏ lòng sám hối. Những người này đã thành tâm hỏi Gioan : Vậy, chúng tôi phải làm gì ? Gioan đã trả lời cho nhiều thành phần khác nhau tìm đến với ông. Với đa số dân chúng, ông nhấn mạnh đến việc thực thi lòng thương xót đối với anh em qua việc chia sẻ tình yêu thương cách cụ thể : Ai có hai áo, chia cho người không có; ai có gì ăn, cũng hãy làm như vậy. Với lời hướng dẫn này, Gioan muốn đám đông dân chúng hãy làm những việc yêu thương cụ thể, chứ không chỉ là việc khóc lóc hoặc kể cả việc lãnh phép rửa sám hối bên ngoài. Một khi mỗi người biết nghĩ đến nhu cầu người khác, biết sống quan tâm, mỗi ngày đem đến cho nhau một niềm vui nho nhỏ, thì cả thế giới sẽ ngập tràn niềm vui và tình yêu thương.

Cũng có những người thu thuế, đại diện cho công chức chính quyền đặt vấn đề với Gioan : Chúng tôi phải làm gì ? Gioan trả lời : Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh. Với những người có chức quyền này, Gioan mời gọi họ hãy làm việc đúng với lương tâm, với hết trách nhiệm và với sự công bằng. Những người này đang là những người thay mặt cho dân để lo việc chung của đất nước, vì thế, điều cần thiết nơi họ là phải có một lương tâm trong sáng, những việc làm minh bạch, làm việc vì công ích chứ không vì tư lợi. Họ là những người đại diện cho dân nên dân có quyền đòi họ phải làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, không thể ù lì, vô trách nhiệm.

Các quân nhân cũng đến hỏi Gioan : Người lính chúng tôi phải làm gì ? – Chớ hà hiếp ai, đừng chiếm đoạt của người khác, hãy bằng lòng với đồng lương của mình. Những người lính là những người nhận lương của dân để bảo vệ và giúp đỡ dân. Vì thế, Gioan chỉ cho họ thấy, họ cần phải làm đúng trách nhiệm của mình, không thể biến mình trở thành kẻ có quyền hà hiếp dân chúng, cũng không thể lợi dụng quyền hạn để tham ô nhũng nhiễu. Chỉ khi họ sống bằng đồng lương chính đáng và lương tâm ngay thẳng thì họ mới có thể có niềm vui và bình an trong tâm hồn và trở thành người bảo vệ và đem niềm vui đến cho người khác.

Lời kêu gọi của Gioan hôm nay cho thấy, mỗi người đều phải nỗ lực canh tân điều chỉnh lại cuộc sống của mình, sống đúng với vai trò của mình trong xã hội thì mới có được niềm vui trong tâm hồn và đem niềm vui đến cho cộng đoàn. Chính Gioan Tiền Hô đã sống hết mình với nhiệm vụ là một người dọn đường. Dù ông được nhiều người coi như là Đấng Cứu thế, nhưng ông không hề lợi dụng lòng yêu mến và sự ủng hộ của họ để gây uy tín cho mình, trái lại, ông sống và nói thật cho mọi người về bản thân : Tôi chỉ làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế đến sau tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho Người.

Lời hướng dẫn của Gioan cho nhiều thành phần trong dân Do Thái ngày xưa cũng vẫn mang tính thời sự và thích hợp cho chúng ta hôm nay. Xã hội ngày nay tạo ra rất nhiều thứ vui chơi giải trí, nhưng dường như con người vẫn cứ sống trong lo âu, buồn chán. Sự buồn chán ấy phản ánh tình trạng tâm hồn nhiều người đang bị bất an, thiếu vắng niềm vui đích thực. Nhiều người đang khép lòng lại trước lời mời gọi của Thiên Chúa, từ chối không muốn để Ngài bước vào tâm hồn của mình. Khi không có Chúa trong tâm hồn thì không thể có niềm vui và bình an. Không có Chúa trong tâm hồn, thì ma quỷ, sự dữ cùng sự buồn chán sẽ xâm chiếm tâm hồn và cuộc đời chúng ta. Những cuộc vui xã hội đang cố gắng bày ra, những cuộc nhậu gọi là giải sầu, không thể lấp đầy sự trống rỗng, buồn chán trong tâm hồn, trái lại, chỉ khi đem Chúa vào tâm hồn, loại trừ được những hận thù ghen ghét, biết sống quan tâm, hướng đến những nhu cầu của anh em và rộng tay chia sẻ thì chúng ta mới có được niềm vui.

Ngày nay, sự tham lam và tính kiêu căng, ngạo mạn đang gây ra lo sợ, bất an cho con người và xã hội. Nhà sản xuất và người buôn bán tham giàu, hám lợi đã dẫn đến việc làm ăn giả dối, đầu độc người khác bằng những thực phẩm bẩn, ướp tẩm hoá chất độc hại ; cộng tác với họ là những người tiêu dùng ham rẻ, thích mẫu mã bên ngoài, đã dẫn đến tình trạng thực phẩm trái cây hoá chất, nguy hiểm, gây lo lắng sợ hãi cho nhiều người. Là tín hữu Công Giáo, chúng ta không thể gây ra lo âu hoặc cộng tác vào những việc giả gối, gây nguy hiểm và lo âu cho người khác như thế.

Cũng vậy, nhiều người đang để cho tiền bạc và công việc chiếm hết thời gian của gia đình, nhiều người khác đã để trong mình sự giận hờn, thù ghét, khiến cho gia đình thiếu niềm vui, thiếu sự cảm thông. Để tìm lại niềm vui trong tâm hồn và gia đình, Thánh Phaolô hôm nay kêu gọi chúng ta : Anh em hãy vui luôn trong Chúa, sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi. Hãy cân nhắc mọi sự, điều gì tốt thì giữ lấy, con điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa. Sống và thực hành như thế, chúng ta sẽ tìm lại được niềm vui trong tâm hồn và trong gia đình mỗi người.

Nhiều bạn trẻ đang chìm trong các tụ điểm vui chơi, game, internet ; nhiều người khác lao vào heroin, đua xe…, mong tạo ra cái vui hời hợt giả trá bên ngoài, nhưng trong tận sâu tâm hồn, nó khiến cho nhiều người trở nên trống rỗng buồn chán, thấy cuộc sống của mình đơn điệu vô nghĩa. Sống như thế thật đáng buồn và đáng tiếc. Trái lại, tuổi trẻ là tuổi của tình yêu và sức sống. Chúng ta cần làm cho tâm hồn mình ngập tràn tình yêu thánh thiện, trong sáng, biết dùng tuổi trẻ và thời giờ vào những việc tốt, việc có ích cho mọi người. Được như thế, chúng ta sẽ tìm được niềm vui trong tâm hồn.

Xin Chúa và Mẹ Maria giúp mỗi chúng ta trở thành người đem niềm vui đến cho người khác, bằng cách mỗi ngày làm một cử chỉ đẹp cho người bên cạnh, cuộc sống này sẽ vui hơn và thế giới này sẽ đẹp hơn. Amen.

 

.

HÃY VUI LÊN

Lm Giuse Phạm Thanh Liêm

Phaolô mời gọi các tín hữu của Ngài: “hãy vui lên”. Tiên tri Sophônia nói: “hãy ca lên”. Tôi phải làm gì để chuẩn bị tâm hồn đón Thiên Chúa đến? Tôi phải làm gì để có thể sống vui?

  1. Vì Thiên Chúa ở giữa ngươi

Tiên tri Sôphônia cho rằng phải ca hát vì Thiên Chúa đang ở giữa dân Người, vì Thiên Chúa đã đẩy lui quân thù cho dân, vì Thiên Chúa sẽ thêm sức mạnh cho dân Người, vì Thiên Chúa yêu thương dân Người, Ngài quy tụ cả những kẻ đã bỏ lề luật của Ngài.

Thiên Chúa ở với ai, thì người đó sẽ được Thiên Chúa bảo vệ. Thiên Chúa đã ở với Abraham khi ông đi vào Aicập, Ngài đã bảo vệ ông khỏi bao tai họa và bênh vực quyền lợi của ông. Khi Sara, vợ của Abraham, được thương yêu và bị bắt làm vợ vua Pharaô, thì Thiên Chúa đã đổ tai họa xuống người Aicập và buộc Pharaô phải trả Sara về cho Abraham. Thiên Chúa đã ở với Yacóp, đã đi với Yacóp và dẫn ông trở về quê cha đất tổ khi ông chạy trốn Esau. Thiên Chúa đã ở với Môsê, để ông có thể đứng vững trước vua Pharaô, để ông có thể đem dân Do Thái ra khỏi Aicập. Thiên Chúa đã ở với các tiên tri, để làm cho các tiên tri dám nói những điều mà những người có quyền thế và dân chúng không muốn nghe.

Hôm nay người ta biết rằng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Ngài luôn luôn hiện diện với tất cả mọi người và với dân Người. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, Ngài luôn trợ giúp con người vì tất cả đều là con dân của Ngài. Không nhờ Ngài, không gì có thể hiện hữu và thành sự. Thiên Chúa hạnh phúc khi ở với con người. Con người cần Thiên Chúa để sống hạnh phúc, và Thiên Chúa cũng cần con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa đang ở với con người, đó là lý do mọi người cần biết để có thể vui lên.

2. Vì Chúa đã gần đến

Thánh Phaolô kêu gọi dân thành Philip hãy vui lên, vì “Chúa đã gần đến”. Với thánh Phaolô, Đức Giêsu là Đấng có thân phận Thiên Chúa, Ngài đã tự hủy khi mang thân phận con người, Thiên Chúa đã đến và ở giữa con người, hiện Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đến hiện diện giữa trần gian trong thân phận con người, và Ngài sẽ lại đến. Ngài đang đến, nên các Kitô hữu hãy vui mừng.

Tại sao vui khi Chúa đến gần? Trong quan niệm của thánh Phaolô, Đức Giêsu là niềm vui, là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào! Chúa tới, là để cứu độ con người, để giải phóng toàn diện con người, đưa con người vào hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu. Vì vậy, Kitô hữu vui biết bao khi biết Chúa đang tới gần. “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi… Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại đón anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng được ở đó với Thầy”.

Trong khi chờ đợi Chúa, Kitô hữu hãy sống ôn hòa. Niềm vui phải tỏa rạng trên gương mặt của các Kitô hữu, vì đây là niềm vui lớn vô cùng. Trên đời này, không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui này: Chúa đến để cứu độ con người, để đưa con người tới hạnh phúc viên mãn. Dân ngoại không biết, nên không có niềm vui này được; còn Kitô hữu biết điều này, nên họ vui. Nếu Kitô hữu không biết điều này, thì thánh Phaolô đã nhắc nhở các con cái của Ngài: “hãy vui lên, tôi nhắc lại lần nữa: anh em hãy vui lên trong Chúa”.

3. Đức Giêsu- niềm vui của con người

Đức Giêsu quả thực là niềm vui của con người! Khi được sinh ra tại chuồng chiên cừu nơi làng Bêlem, không ai biết Ngài là nhân vật đặc biệt. Khi sống thời thơ ấu tại Nazarét, cũng chẳng ai biết nguồn gốc thần linh của Ngài ngoại trừ Đức Mẹ và thánh Yuse. Khi Ngài đi rao giảng, Ngài được coi là một tiên tri, là người qua đó Thiên Chúa hiện diện và yêu thương dân Người. Với tư cách là một tiên tri, người của Thiên Chúa, Ngài cũng đã làm cho dân chúng thêm tin tưởng vào Thiên Chúa, làm cho dân chúng vui vì họ cảm nhận Thiên Chúa quan tâm và an ủi dân Người.

Sau biến cố Phục Sinh, các tông đồ nhận biết Đức Giêsu hoàn toàn lấy ý Thiên Chúa làm ý mình, Ngài chấp nhận vâng phục cho đến chết, Ngài hoàn toàn phó thác tất cả trong tay Thiên Chúa, Ngài thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Đức Giêsu có nguồn gốc thần linh; điều này là nguyên nhân khách quan làm Kitô hữu vui mừng.

Một khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng đồng bản tính với Thiên Chúa, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, thì Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng! Thiên Chúa đã yêu thương con người đến cùng cực nên mới cho Con của Ngài nhập thể làm người! Con người thật hạnh phúc dường bao khi nghe Tin Mừng này. Niềm tin này ảnh hưởng trên con người toàn diện, làm con người vui mừng hân hoan. Đâu còn niềm vui nào lớn hơn niềm vui này! Niềm vui này phải lan tỏa và chi phối toàn diện con người, cả về thể lý lẫn tinh thần. Ước gì mỗi Kitô hữu tin tuyệt đối vào Đức Giêsu Kitô, để cuộc đời của mỗi người là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người được biểu lộ qua Đức Giêsu Kitô.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Xin chia sẻ niềm vui lớn nhất trong đời bạn.
  2. Bạn có kinh nghiệm về nỗi buồn không? Nó là gì? Nó có đáng cho bạn buồn không?
  3. Đức Giêsu có ảnh hưởng nhiều trên đời bạn không? Xin chia sẻ!

 

.

NIỀM VUI TIN MỪNG

Lm. Giuse nguyễn Hữu An

Chúa nhật III Mùa Vọng thường được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Lời kêu gọi “hãy vui lên” được lặp đi lặp lại trong các bài đọc. Đây là niềm vui trong Chúa, niềm vui có Chúa. Cuộc sống sẽ vui tươi hạnh phúc khi chúng ta có Chúa trong cuộc đời của mình. “Niềm vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và đời sống tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu. Những ai tiếp nhận đề xuất cứu rỗi của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn sầu, trống rỗng và cô đơn nội tâm. Với Chúa Kitô, niềm vui luôn luôn trổ sinh như mới”. (x.Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng). Đức Thánh Cha Phanxicô luôn luôn thao thức đối với việc sống và rao giảng Tin Mừng. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin vào trưa Chúa Nhật 01/02/2015, ngài khích lệ các tín hữu hãy có thói quen hàng ngày đọc và suy niệm Lời Chúa để cho Lời Chúa biến đổi tâm hồn, cuộc sống của mình. Ngài mời gọi mọi người dám ra khỏi mình để đem Tin Mừng đến các vùng ngoại biên. Theo ngài, niềm vui chính là vẻ đẹp của Tin Mừng.

Niềm vui Tin Mừng là niềm vui trong Chúa và có Chúa ở giữa chúng ta.

  1. Niềm vui trong Chúa

Chủ đề Phụng vụ Chúa nhật III là ‘niềm vui’. Bài đọc 1 và bài đọc 2, mời gọi dân Chúa hãy vui lên. Vui vì Thiên Chúa sắp đến thực hiện ơn cứu độ. Người đến để tha thứ, để hòa giải, để cứu thoát dân khỏi nô lệ tội lỗi và ma quỉ ( Bài đọc 1).Thánh Phaolô khẳng định niềm vui đó là niềm vui trong Chúa : “Anh em hãy vui luôn trong Chúa”. Niềm vui trong Chúa là niềm vui có được từ nơi Thiên Chúa. Hãy vui và vui luôn mãi trong niềm vui của Chúa. Niềm vui này không chỉ là một tình cảm, nhưng phát sinh những hoa trái cụ thể trong cuộc đời: sống hiền hòa rộng rãi với mọi người, không phải lo lắng gì cả, vì có gì thì cứ trình bày với Chúa, lòng trí luôn được bình an.

Niềm vui là nét tiêu biểu của người Kitô hữu, là mong ước của mọi người. Sống ở đời ai cũng mong mình có được niềm vui sống và nỗ lực đi tìm niềm vui. Người Kitô hữu xác tín rằng, niềm vui đích thực chỉ có nơi Thiên Chúa. Một khi biết mình đã có Chúa thì mọi âu lo buồn phiền sẽ không còn. Càng khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, càng gia tăng niềm vui sống. Càng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống, niềm vui sống càng sâu sắc bền vững. Niềm vui trong Chúa luôn là một niềm vui gia tăng sức mạnh cho tâm hồn trước những nghịch cảnh, đau khổ của kiếp người. Niềm vui trong Chúa cũng là niềm vui biến đổi đau thương thành hạnh phúc. Niềm vui trong Chúa giúp cho mỗi người có nghị lực vươn lên vượt qua nghịch cảnh. Đức cha Bùi Tuần viết: “Niềm vui cần nhất và quý nhất là niềm vui có Chúa là Tin Mừng trong lòng mình”.

Là con người, ai cũng mơ ước và đi tìm niềm vui sống. Ngày nay, có nhiều người mải miết tìm kiếm những thú vui xác thịt, thú vui thụ hưởng vật chất. Có những niềm vui mà sau đó người ta cảm thấy trống rỗng buồn phiền và chán nản. Có những niềm vui mà sau đó người ta mệt mỏi và thất vọng. Có những niềm vui mà sau đó người ta lo âu hối hận. Còn người Kitô hữu đi tìm niềm vui trong Chúa. Niềm vui này là dấu hiệu của bình an nội tâm, của sự hài lòng, của tự tín, là dấu hiệu cho thấy rằng người ta đang cảm thấy được an toàn, được đón nhận, được yêu mến. Một người Kitô hữu mà sống bi quan chán chường, thất vọng buông xuôi, ấy là dấu hiệu có điều gì đó không ổn về đức tin.

Niềm vui là dấu hiệu của hạnh phúc. Một tâm trạng an vui thường xuyên và sâu xa, niềm an vui không loại trừ gian nan, thử thách và đau khổ. Người Kitô hữu biết mình được thương yêu, được đón nhận và tha thứ. Họ biết mình đang tiến về đâu. Cái gì có thể làm cho họ sợ hãi? Gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, chết chóc chăng? Hay là ma quỉ, hay những sức mạnh vô hình nào chăng? Hay là tội lỗi của ta chăng? Thánh Phaolô trả lời khẳng khái: Không! Tôi không sợ vì không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Ðức Kitô được, trái lại trong tất cả những thử thách ấy, tôi toàn thắng nhờ Ðấng đã yêu mến tôi (x.Rm 8,35-38).

  1. Niềm vui hoán cải

Để có được niềm vui trong Chúa, điều căn bản là phải tin tưởng gắn bó cuộc đời với Chúa, phải thực lòng yêu mến Người. Chính niềm tin và tình yêu dành cho Thiên Chúa thúc đẩy con người hoán cải khi lầm lỗi.

Bài Tin Mừng hôm nay kể câu chuyện hoán cải tuyệt vời. Sau khi nghe lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy Giả, nhiều người tỏ vẻ phục thiện, sẵn sàng cải đổi nếp sống sai lạc của mình. Phải làm gì để hoán cải. Phải làm gì để có hạnh phúc, có niềm vui ?

Nhiều người đến xin Gioan những lời khuyên thiết thực: “Chúng tôi phải làm gì đây?“. Tùy từng người mà Gioan khuyên bảo:

– Đối với dân chúng: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”.

– Đối với người thu thuế: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”.

– Đối với các quân nhân: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.

Gioan không có ý khuyên người ta phải bỏ việc đang làm nhưng ngài dạy họ phải làm việc thật tốt đúng với bổn phận đã được lãnh nhận, không những họ phải trở thành người biết yêu thương mà còn phải trở nên những người đáng mến và dễ thương.Câu trả lời của Gioan cho mỗi hạng người có một hành động khác nhau, nhưng tựu trung đều nhắm tới việc hoán cải. Ơn hoán cải hướng đến đời sống bác ái, công bằng với người khác. Ơn hoán cải mang lại niềm vui biết trao ban.

Có một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người Tân tòng và một người chưa có niềm tin như sau:

– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?

– Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Đức Kitô.

– Vậy xin hỏi anh, Ông Giêsu sinh ra ở quốc gia nào?- Rất tiếc là tôi quên mất chi tiết này.

– Thế khi chết ông ta được bao nhiêu tuổi?

– Tôi cũng nhớ không rõ nên chẳng dám nói.

– Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài?-

Tôi không biết.

– Quả thật anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã theo đạo.

Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước tôi là một người nghiện rượu sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ, gia đình tôi xuống dốc trầm trọng, bao nhiêu của cải tôi đều nướng vào các cuộc men say tuý luý. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận, buồn tủi và xấu hổ.Thế mà bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc. Vợ tôi, các con tôi ngóng trông và vui mừng đón đợi tôi sau khi tôi đi làm về. Những điều này, không ai khác hơn chính là Đức Kitô đã làm cho tôi và đó là tất cả những gì tôi biết về Người.

Niềm vui Thiên Chúa ban chỉ dành cho những ai đón nhận được ơn đổi đời. Từ một người hẹp hòi ích kỷ trở thành người quảng đại dấn thân, biết sống bác ái yêu thương mọi người. Từ một người lạm dụng quyền hành hà hiếp bạo lực trở nên người dễ mến đáng yêu, được mọi người kính trọng. Từ người cơ hội, tham lam thủ đoạn chiếm đoạt của cải người khác khiến họ phải oán giận nguyền rủa trở thành người biết sống công bằng. Ơn hoán cải và niềm vui được biến đổi sẽ là khởi đầu để người ta đón nhận ơn cứu độ.

  1. Niềm vui Tin Mừng.

Tin Mừng có nghĩa là tin mang đến niềm vui.Tin Mừng luôn là một lời mời gọi con người sống vui tươi. Tin Mừng là một lời xác nhận cao cả cho giá trị của thế giới và giá trị của con người. Bởi vì Tin Mừng là chính sự mạc khải sự thật về Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch nguyên thủy của niềm vui và hy vọng cho con người” (x.Bước qua ngưỡng cửa hy vọng). Tin vào Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta luôn có niềm vui và hạnh phúc.

Niềm vui Tin Mừng đến từ nội tâm. Mỗi ngày, người tín hữu tìm được niềm vui khi đến Nhà thờ, khi đi tham dự thánh lễ: “Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: ta hãy đi đến nhà Đức Chúa” (Tv 122,1).

Niềm vui Tin Mừng vì được sống trong lòng Giáo Hội. Giáo Hội như người mẹ, ôm ấp và chở che mọi người, đón nhận và đỡ nâng tất cả : “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống sum vầy bên nhau” (Tv 133,1).

Niềm vui Tin Mừng nhờ sống phó thác vào Chúa. Còn gì phải lo lắng nếu chúng ta có Chúa dẫn đường? Còn gì phải sợ hãi nếu chúng ta có Chúa là Đấng che chở? Niềm phó thác nơi Chúa sẽ giúp chúng ta tự tin hơn trong cuộc sống “Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào. Lời Chúa trở thành hoan lạc cho con, thành niềm vui của lòng con, vì con được mang danh Ngài” (Gr 15, 16).

Niềm vui Tin Mừng đối với người tín hữu là sự bình an của một trẻ thơ trong vòng tay mẹ: “Như trẻ thơ nếp mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131,2).

Niềm vui Tin Mừng là được sống kết hợp mật thiết với Đức Kitô. Thánh Phaolô nhấn mạnh đến cách sống hiền hòa rộng rãi, yêu thương và sẵn sàng tha thứ. Để thực hiện được điều này, ngài tha thiết mời gọi phải khiêm nhường cầu khẩn và tạ ơn. Có như thế, bình an của Thiên Chúa mới giữ cho lòng trí của chúng ta được kết hợp với Đức Giêsu Kitô được.

Niềm vui Tin Mừng là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.” (Mt 11, 25-26 ; Lc 10, 21).

Niềm vui Tin Mừng còn là chia sẽ trao ban.Niềm vui được nhân lên khi chia sẽ. Đi từ trái tim đến trái tim, hoa trái của bác ái thật là dịu ngọt đối với cả người cho lẫn người nhận. Hoa trái dịu ngọt chính là hạnh phúc.Hạnh phúc là niềm vui. Khi người ta vui thì hạnh phúc. Khi người ta hạnh phúc thì người ta vui. Rất đơn sơ, thật dễ hiểu. Hạnh phúc là niềm vui của mỗi người và mọi người trong gia đình chung sống với nhau. Những niềm vui làm thành cuộc đời. Niềm vui làm cho mỗi tâm hồn trở nên ấm cúng.

Niềm vui chỉ thực sự có khi có tình yêu. Khi không có tình yêu thì không có niềm vui thực sự. Và đặc biệt khi được tình yêu của Thiên Chúa tiếp sức, con người ta lúc nào cũng có thể rạng rỡ tươi cười, mặc dù có khó khăn mặc dù có đau khổ, gương mặt luôn biểu lộ hạnh phúc bởi vì lúc nào trái tim cũng dào dạt yêu thương.

Niềm vui Tin Mừng không phải là niềm vui của những thành công, của những thanh thế, của những hoạt động. Càng không phải là niềm vui do có nhiều phương tiện vật chất và được nâng đỡ của xã hội. Niềm vui Tin Mừng là có trong lòng mình chính Chúa Giêsu khiêm nhường tự hạ và yêu thương để cứu chuộc loài người. Niềm vui Tin Mừng ấy là động lực chính khiến chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa qua chính con người và cuộc sống của chúng ta. Con người chúng ta sẽ là con người hiền lành khiêm nhường đầy yêu thương tự hạ. Cuộc sống của chúng ta sẽ là cuộc sống hy sinh, phấn đấu, để được phục vụ như Chúa Hài nhi Giêsu và như Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá.

Lễ Giáng Sinh, lễ tình yêu nhập thể đang đến gần. Niềm vui Giáng Sinh là niềm vui được thức tỉnh, sám hối và hoán cải để canh tân đời sống. Đó là niềm vui trong nội tâm và diễn tả qua đời sống luôn chu toàn bổn phận hằng ngày của mình, yêu thương phục vụ mọi người.

 

.

SÁM HỐI

Lm. Nguyễn Cao Siêu

Suy Niệm

Màu tím bao trùm mùa Vọng.

Các Kitô hữu lo sám hối để lãnh nhận bí tích Hòa giải. Nhiều người ngại xưng tội, ngại đào bới lại quá khứ. Xưng tội mang dáng dấp của một cái gì buồn thảm!

Thật ra bí tích Hòa giải là một điều tươi tắn hơn nhiều. Sám hối không phải chỉ là quay về quá khứ, mà còn là hướng đến tương lai với rất nhiều hy vọng.

Sám hối còn có màu hồng như màu áo lễ hôm nay.

Khi dân chúng đến với Gioan, nhận phép rửa sám hối, họ đã hỏi ông: Chúng tôi phải làm gì đây? Cả những người thu thuế và binh lính cũng hỏi những câu tương tự.

Chúng tôi: sám hối mang tính tập thể, tính liên đới. Hội Thánh chúng tôi cùng chịu trách nhiệm về sự dữ.

Phải: một thúc bách của trái tim hoán cải thực sự.

Làm gì đây: sám hối không phải chỉ là một cảm xúc, tuy thánh thiện, nhưng lại mông lung, xa rời thực tế.

Sám hối đích thực đưa đến một hành động cụ thể. Gioan đã cho ta những câu trả lời còn nguyên giá trị.

Sám hối là sống bác ái, có hai chia một. Nhường cơm sẻ áo là ra khỏi nỗi bận tâm về mình.

Sám hối là sống công bằng, không tham lam vơ vét, không dùng quyền lực để cưỡng đoạt, áp bức ai.

Sám hối là hết nô lệ cho của cải, tiền bạc, quyền lực. Như thế dọn đường cho Chúa đến bằng sám hối đòi ta chỉnh đốn lại con đường đến với tha nhân.

Trở về với Chúa diễn tả qua việc trở về với anh em.

Gioan không bắt những người thu thuế bỏ cái nghề ô nhục, cũng không đòi những người lính Do thái bỏ phục vụ Hêrôđê. Ông cũng không bảo họ lên Đền Thờ dâng lễ đền tội, hay vào hoang địa sống nhiệm nhặt như mình. Họ cứ làm nghề của họ, nhưng với một tinh thần mới.

Sám hối thực sự thì đụng đến bàn tay, một bàn tay chứa đựng cả con tim và khối óc.

Trong mùa Vọng này, chúng ta phải hỏi nhau: mình phải làm gì?

Giới trẻ hôm nay muốn cảm thấy mình có ích, và muốn dùng thời giờ của mình sao cho có ý nghĩa.

Hãy gặp nhau, chấp nhận nhau và làm việc với nhau. Hãy cùng nhau làm một điều tốt nào đó cho đồng bào. Hãy cho thấy mình là người có đức tin. Đức tin được diễn tả qua hành động yêu thương cụ thể, và yêu thương lại làm cho đức tin lớn lên.

Xưng tội cần dốc lòng chừa. Dốc lòng chừa đòi đổi lối nghĩ và lối sống.

Đứa con thứ cần sống khác, sau khi trở về nhà Cha.

Chúng ta đã được chịu phép rửa trong Thánh Thần, nhưng chúng ta vẫn cần được Thánh Thần thanh tẩy mỗi ngày. Chúng ta không thể tự sức mình canh tân cuộc sống. Trở lại với tình yêu là hồng ân của Thánh Thần. Ước gì chúng ta mềm mại để cho Ngài uốn nắn và dạy ta biết làm gì để bày tỏ lòng hoán cải.

Gợi Ý Chia Sẻ

Có những tội cá nhân và những tội tập thể. Bạn thấy nhóm của bạn, giáo xứ của bạn, Hội Thánh của bạn thường vấp vào những khuyết điểm hay thiếu sót nào, thậm chí tội nào, đối với Chúa và tha nhân?

Tội tâp thể cần có một cuộc sám hối tập thể. Nhóm của bạn định làm một việc cụ thể nào để bày tỏ lòng sám hối tích cực trong mùa Vọng này?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

 

.

CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH

Trầm Thiên Thu

Chúa Nhật III Mùa Vọng là Chúa Nhật Vui (Gaudete, x. Pl 4:4-6 và Tv 85[84]:1) [*], mở đầu Ca Nhạp Lễ: “Gaudete in Domino semper – Hãy vui luôn trong nim vui ca Chúa”. Ba ngọn nến tím và một ngọn nến hồng. Chúng ta vui mừng vì đã “đi” được nửa chặng đường Mùa Vọng, đồng nghĩa với việc Chúa Giêsu đến gần, và lễ Giáng Sinh sắp tới rồi…

Thánh Vịnh cho biết: “Triu đi Người [Thiên Chúa] đua n hoa công lý, và thái bình thnh tr ti ngày nao tuế nguyt chng còn” (Tv 72:7). Công lý và hòa bình có mối liên quan lẫn nhau. Không có Công lý, không có Hòa bình – No Justice, no Peace. Chắc chắn như vậy! Thế nhưng công lý là gì?

Triết gia John Rawls (1921-2002, Hoa Kỳ) cho rằng “công lý là đc tính tiên quyếcủa tất cả các đnh chế xã hi”. Còn Giáo hội Công giáo hiểu rằng “công lý và hoà bình là du ch ca thi Thiên Sai, là triu đi ca Vua vinh hin”. Công lý bao gồm sự công bằng xã hội, sự liêm khiết, tính hợp lý, sự phán quyết công minh, phù hợp pháp luật, và trên hết là thc hin Lut Chúa, cả luật tự nhiên ghi khắc trong lòng con người và luật được Thiên Chúa truyền dạy.

Horatio Walpole (1717-1797), bá tước thứ tư của Oxford, sử gia nghệ thuật, tiểu thuyết gia và chính trị gia người Anh, nói: “Công lý là hành đng ca s tht hơn là đạo đức. Sự thật cho chúng ta biết điều gì do người khác, và công lý thực hiện sự thích đáng đó. S bt công là đng thái ca s di trá”.

Albert Einstein (1879-1955), nhà vật lý lý thuyết người Đức đoạt giải Nobel Vật lý năm 1921, nói: “V s tht và công lý, không có s khác bit gia nhng vn đln nh, vì nhng điu liên quan ti cách con người được đi x đu ging nhưnhau. Sự bình đẳng – về mọi phương diện – cũng chính là công lý.

Xã hội loài người có quá nhiều bất công – bất công với nhau đã đành, chúng ta còn bất công cả với Thiên Chúa, Đáng tác tạo nên chúng ta. Thiên Chúa là Đấng chí thánh, chí thiện, chí minh và chí công. Ngài luôn rạch ròi mọi điều: “Ta chung lcông minh, ghét chuyn cướp bóc gian tà, nên Ta s theo lòng thành tín mà ban phn thưởng cho các ngươi, và s lp vi các ngươi mt giao ước vĩnh cu” (Is 61:8).

Thiên Chúa tái xác định: “Ta là Đc Chúa, Đng thc thi nhân nghĩacông bình và chính trc trên mt đt. Phi, Ta ưa thích nhng điu này. S đến nhng ngày Ta s hch ti mi k ct bì mà k như không” (Gr 9:23-24). Ngài không đùa, nói là làm, và rồi chính “tay hữu Chúa thi hành công lý” (Tv 48:11). Trước mặt Philatô, một con người đầy quyền lực, Chúa Giêsu vẫn khẳng khái minh định: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhm mc đích này: làm chng cho s tht. Ai đng v phía stht thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37).

Công lý là điều tối quan trọng, luôn được đề cập trong Kinh Thánh: “Công lý ca Ngài như đnh núi Thái Sơn, quyết đnh ca Ngài ta vc sâu thăm thm” (Tv 36:7). Chúa Cha cũng đã nói rõ về Chúa Con: “Người s loan báo công lý trước muôn dân” (Mt 12:18). Chính Chúa Giêsu sẽ “theo công lý mà xét xử và giao chiến” (Kh 19:11), và “trời mới và đất mới là nơi công lý ngự trị” (2 Pr 3:13).

Ngôn sứ Xô-phô-ni-a mời gọi: “Reo vui lên, hi thiếu n Sion, hò vang dy đi nào, nhà Ít-ra-en hi! Hi thiếu n Giêrusalem, hãy nc lòng phn khi” (Xp 3:14). Tại sao lại reo hò vui mừng như vậy? Sự kiện rất minh nhiên: “Án lnh pht ngươi, Đc Chúa đã rút li, thù đch ca ngươi, Người đã đy lùi xa. Đc Vua ca Ít-ra-en đang ng gia ngươi, chính là Đc Chúa. S chng còn tai ương nào khiến ngươi phi s” (Xp 3:15). Thế thì không thể không reo vui, không thể không hát mừng.

Ngày xưa, người ta đã nói với Giêrusalem thế này: “Sion ơi, đng s, ch kinh hãi rng ri. Đc Chúa, Thiên Chúa ca ngươđang ng gia ngươi, Người là V cu tinh, là Đng anh hùng. Vì ngươi, Chúa s vui mng hoan h, s ly tình thương ca Người mà đi mi ngươi. Vì ngươi, Chúa s nhy múa tưng bng như trong ngày l hi. Nhng k tn lc được hi hương, Ta đã ct khi ngươi tai ho khiến ngươi không còn phi ô nhc na” (Xp 3:16-18a). Và ngày nay, chúng ta cũng đang được nhắn nhủ như vậy. Hạnh phúc ấy quá lớn, lớn đến nỗi cứ ngỡ mình ngủ mơ. Không phải giấc mơ, không phải chiêm bao, nhéo mặt vẫn thấy đau, vậy là rất tỉnh táo. Hoàn toàn là sự thật, chân vẫn đạp đất, không phải chuyện trên cung trăng.

Chắc chắn Thiên Chúa sẽ đến cứu chúng ta thoát khỏi mọi đau khổ, mọi bất công, mọi bất hạnh,… Đó là ngày Con Thiên Chúa nhập thể và nhập thế, ngày khởi đầu công cuộc cứu nhân độ thế. Và ngày đó, chúng ta sẽ cùng nhau cất lời xưng tụng: “Ly Đc Chúa, con dâng li cm t: Ngài đã tng thnh n vi con, nhưng gi đây cơn gin đã nguôi ri, và Ngài li ban nim an i” (Is 12:1). Đồng thời chúng ta cũng sẽ hân hoan xác nhận: “Đây chính là Thiên Chúa cu đ tôi, tôi tin tưởng và không còn s hãi, bi vì Đc Chúa là sc mnh tôi, là Đng tôi ca ngi, chính Người cu đ tôi. Các bn s vui mng múc nước tn nguơn cu đ. Các bn s nói lên trong ngày đó: Hãy t ơĐc Chúa, cu khn danh Người, vĩ nghip ca Người, loan báo gia muôn dân, và nhc nh: danh Người siêu vit” (Is 12:2-4).

Bất ngờ được người mình yêu quý đến thăm, chúng ta vui mừng và nói là “rồng đến nhà tôm”. Được người quyền cao chức trọng tới thăm, chúng ta còn vui mừng hơn nhiều. Mức độ vui mừng lên tới tột cùng, không thể tả, khi được chính Con Thiên Chúa tới thăm. Thế thì không thể im lặng, và chúng ta phải thúc giục nhau như dân Chúa xưa: “Đàn ca lên mng Đc Chúa, vì Người đã thc hin bao kỳ công; điu đó, phi cho toàn cõi đt được tường. Dân Sion, hãy reo hò mng r, vì gia ngươi, Đc Thánh ca Ít-ra-en qu tht là vĩ đi!” (Is 12:5-6).

Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, Thánh Phaolô nhắn nhủ và động viên chúng ta: “Anh em hãy vui luôn trong nim vui ca Chúa. Tôi nhc li: vui lên anh em! Sao cho mi người thy anh em sng hin hoà rng rãi, Chúa đã gn đến. Anh em đng lo lng gì c. Nhưng trong mi hoàn cnh, anh em c đem li cu khn, van xin và tơn, mà giãi bày trước mt Thiên Chúa nhng điu anh em thnh nguyn” (Pl 4:4-6).

Ngôn sứ Isaia cũng đã xác định rạch ròi: “Khi ngươi kêu cu, Người s thi ân giáng phúc cho ngươi; nghe tiếng ngươi kêu là Người đáp li” (Is 30:19). Và rồi “bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí chúng ta được kết hp vi Đc Kitô Giêsu” (Pl 4:7). Thánh Phaolô còn mạnh mẽ nói: “Ai không yêu mến Chúa thì là đ khn kiếp!” (1 Cr 16:22).

Trình thuật Lc 3:10-18 cho chúng ta biết cách thực hiện công lý và hòa bình, thực hiện cụ thể chứ không mơ hồ hoặc nói suông. Các động từ cần thiết cho việc sống yêu thương, sống lòng thương xót, là các động thái rất ư bình thường, nhưng tác dụng phi thường: Chia sẻ, cho, trao, tặng, biếu,… Đó là thực hiện công lý, là kiến tạo hòa bình.

Một hôm, đám đông hỏi ông Gioan Tẩy Giả về những việc cần làm. Ông trả lời: “Ai có hai áo thì CHIA cho người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vy. Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa, gọi ông Gioan là Thầy và xin ông chỉ cho biết những gì phải làm. Ông bảo họ: Đng đòi hi gì quá mc đã n đnh cho các anh”. Binh lính cũng hỏi và ông bảo họ: Ch hà hiếp ai, cũng đng tng tinngười ta, hãy an phn vi s lương ca mình”.

Các động từ ở mệnh lệnh cách thật đáng lưu ý, vì đó là các động từ hứng tỏ giữ luật công lý: Đừng đòi hỏi nhiều, chớ hà hiếp ai, đừng tống tiền ai, và cứ an phận thủ thường, bằng lòng với những gì mình có. Đó cũng chính là dạng bí quyết sống hạnh phúc ngay ở thế gian này. Tâm bình an thì sống thanh thản. Không so đo để dễ dàng chấp nhận những gì mình có, thế là hạnh phúc. Càng so đo càng tự dày vò mình, tự làm khổ mình, và rồi cũng dễ ghen tỵ với người khác – thế thì hóa ra phi yêu thương, phi công lý.

Ngày xưa, khi dân đang trông ngóng, trong thâm tâm ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia! Nhưng ông Gioan trả lời thẳng thắn với họ: “Tôi, tôi làm phép ra cho anh em trong nước, nhưng có Đng mnh thế hơn tôđang đến, tôi không đáng ci quai dép cho Người. Người s làm phép ra cho anh em trong Thánh Thn và la. Tay Người cm nia rê sch lúa trong sân: thóc my thì thu vào kho lm, còn thóc lép thì b vào la không h tt mà đt đi”.

Ông Gioan nói ngắn gọn, giản dị, nhưng rất thực tế, nhẹ nhàng mà đáng sợ, trong đó hàm chứa luật công lý, luật công bằng, luật bác ái.

Về vấn đề công lý và hòa bình, bà Aung San Suu Kyi (sinh năm 1945) nhận định rất chí lý: “Ch có mt nhà tù đích thc là s s hãi, ch có mt t do đích thc là thoát khi s s hãi đó”. Sự thật đó chính là công lý. Như chúng ta đã biết: Không có công lý, không có hòa bình – No justice, no peace. Nhưng trước tiên cần có và phải có TÌNH YÊU THƯƠNG, cũng chính là LÒNG THƯƠNG XÓT. Có Yêu Thương mới biết Trắc Ẩn, biết Trắc Ẩn để có thể Tha Thứ, có Tha Thứ mới có Công Lý, có Công Lý sẽ có Hòa Bình. Một chuỗi-hệ-lụy không thể tách rời, một chuỗi-ân-tình nối kết với nhau vô cùng chặt chẽ.

Công Lý và Hòa Bình cũng liên quan Sự Sống, chạm đến Sự Sống là chạm đến Thiên Chúa. Một thông tin đáng buồn: “Ch trong vòng 1 tháng và 1 tun đã có 645 thai nhi b sát hi do t nn phá thai ti mt s cơ s ý tế ca thành ph Hi Phòng”. Như vậy, tính trung bình mỗi ngày có 64 thai nhi bị sát hại. Thật kinh khủng!

Số thai nhi này đã được Nhóm Bảo Vệ Sự Sống tại Hải Phòng đón nhận và hiệp dâng thánh lễ lúc 14 giờ 30 ngày 26-11-2015. Các thai nhi vô tội này được an táng tại nghĩa trang Gx Trang Quan.

Theo thống kê, Việt Nam là nước có tỷ lệ nạo phá thai nhiều nhất Đông Nam Á, và là một trong năm nước có tỷ lệ nạo phá thai nhiều nhất thế giới. Không chỉ vậy, Việt Nam còn là “khu trù mật” cho tệ nạn buôn người (phụ nữ và trẻ em) và cung cấp nội tạng cho Trung cộng. Điều đó cho thấy Việt Nam là đất nước đầy tội lỗi, đặc biệt là tội về sát sinh và vi phạm công lý. Và tội lỗi thì đáng bị trừng phạt thôi!

Thật rùng rợn khi nghe Mẹ Têrêsa Calcutta vạch trần tội ác: Mi ngày trên thế gii có ti 130 ngàn thai nhi b tước mt quyn làm người. Phá thai là bất công, là phi công lý, do đó mà lòng người bất an, dẫn tới xã hội vắng bóng sự an bình, vì chỉ những ai thiện tâm mới được Thiên Chúa yêu thương và được hưởng bình an đích thực (x. Lc 2:14).

Về cái tệ hại thì Việt Nam được hai “hạng nhất”, về cái tốt lành thì Việt Nam bị “hạng áp chót”: Theo đánh giá về mức độ “đáng sinh sống” của 125 nước, Việt Nam là nước xếp hạng 124 – nghĩa là quá tệ, là nơi “không đáng sống”. Thật đáng buồn biết bao! Phải chăng nguyên nhân là do coi thường công lý?

Thiên Chúa chí minh, chí thiện, và hành động thế nào? Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Người là Đng gi lòng trung tín mãi muôn đi, x công minh cho người b áp bc, ban lương thc cho k đói ăn, gii phóng nhng ai tù ti, m mt cho k mù loà, cho k b dìm xung đng thng lên, yêu chung nhng người công chính, phù trnhng khách ngoi kiu, nâng đ cô nhi qu ph, nhưng phá v mưđ bn ác nhân” (Tv 146:6b-9).

Ly Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, xin giúp con biết tôn trng S Tht đbo v công lý, luôn “biết mến yêu và phng s Ngài trong mi người”, và xin biến đi con nên “khí c bình an ca Ngài”. Ước gì con nhìn thy rõ Tôn Nhan Ngài nơi tha nhân, và tha nhân cũng thy được Ngài nơi con. Xin ng đến, ly Đng Emmanuel – Đng hng sinh và hin tr cùng vi Chúa Cha, hip nht vi Chúa Thánh Thn, đến thiên thu vn đi. Amen.

[*] Chúa Nhật IV Mùa Chay là Chúa Nhật Mừng (Laetare, x. Is 66:10-11).

 

.

VUI VÀ SỐNG

Lm. Jos. DĐH

Dù ăn, dù nói, dù làm việc hoặc nghỉ ngơi, nếu có nghệ thuật, vẫn hơn; dù trẻ, dù khỏe, dù thông thái hay chỉ là người tầm thường, hẳn ai cũng cần được tư vấn để biết vui và biết sống thật ý nghĩa. Cuộc đời có vui có buồn, đôi khi còn mông lung như hành trình không thấy bến bờ…, bế tắc ấy, tâm sự ấy, sẽ sớm được giải tỏa, nếu chúng ta gặp được “chuyên gia”, hoặc có một vị thầy khôn ngoan đức độ ! Tiếng hô từ sa-mạc đã thu hút và biến đổi nhiều tâm hồn, nhưng liệu tiếng hô của Giáo hội có còn tạo nên được niềm vui và hy vọng cho cuộc sống chúng ta hôm nay không ?

Ở đời có nhiều thứ chi phối, làm thay đổi giá trị sống của con người, nhưng niềm vui, sức khỏe, và phong cách sống, vẫn mãi được chú ý, nhằm mang đến hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà. Có tạo được niềm vui cho bạn, cho mình, mới thấy rõ tình người trong cuộc sống. Có sức khỏe, bạn sẽ bẻ gẫy được gian nan. Có vui, khỏe, mỗi thành viên gia đình và xã hội mới đủ lực làm nên cuộc sống ổn định. Ở tâm điểm của sám hối, Gioan Tiền hô đã trở nên quân sư chỉ dẫn mọi đối tượng, cần phải làm gì để có được niềm vui cho cuộc sống ở phía trước.

Sự khôn ngoan ở đời là biết chạy đến người giầu, người có chức quyền, để hy vọng có hỗ trợ về vật chất tiền của. Khi cần trang bị kiến thức, kinh nghiệm sống, người ta tìm thầy danh tiếng để thọ giáo. Những lúc mệt mỏi, căng thẳng về thể xác tinh thần, người ta thường tìm nơi chốn thích hợp để thư giãn, nghỉ ngơi. Số đông dân Do-thái năm xưa tìm đến Gioan không phải vì họ thiếu tiền, cũng không phải vì cần một số kiến thức, cũng chẳng phải do họ đang cần nơi thanh vắng nghỉ ngơi. Thực ra thì họ đang cần được xoa dịu những khổ đau tinh thần, cần đươc no thỏa về hạnh phúc tâm linh.

Hôm nay đây, chúng ta đến ngôi thánh đường để mong tìm gặp một người “hao hao” giống Gioan, hay chúng ta hy vọng được nghe, được giải tỏa những khổ đau tinh thần ? Triết lý cuộc đời đã nói lên một kinh nghiệm : khi ta thất vọng, chỉ vì ta chưa đứng lên được với quá khứ sai lầm của mình. Khi ta bối rối lắng lo nhiều điều, là do ta bỏ qua thực tế, chỉ hướng về sự “kiện toàn” ở tương lai. Khi ta có bình an, thực sự là bạn đang đối diện với hiện tại cách đơn giản và đẹp hơn cả. Rất tiếc là không phải hết tất cả mọi người, đều đủ khôn ngoan, tìm đến với quân sư Gioan để được hướng dẫn một lối sống cụ thể nhất.

Cha ông chúng ta có câu : áo sứt chỉ, mơ ước đơn giản là gặp được người biết khâu vá; còn được Tiên, được Phật, cho điều ước, hay nhất vẫn là ước được trở nên người hiền tài. Hãy sống mơ ước đơn giản, hãy khao khát trở nên người hữu ích, nhưng trước hết đừng ngại tìm đến người chỉ đường, bởi vì không có thầy đố mày làm nên. Người thầy Gioan chỉ đường cho dân chúng gặp Đấng cứu thế, thầy cũng chỉ cho từng đối tượng biết phải sống thế nào để có niềm vui, có tình yêu Chúa trong cuộc đời.

Tận tình hướng dẫn đám đông, nhiệt thành với sứ mạng dọn đường, Gioan cho mọi người biết ông chỉ làm công việc bổn phận, ông cũng như mọi người rất mong chờ được lãnh nhận ơn cứu độ. “Tôi thì lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người”. Và điều chung cho mọi người, ai cũng cần chuẩn bị tâm hồn, thay đổi cách sống cho xứng hợp để Chúa đến. Nghĩa là không phải thay mới nơi ở, mà đổi mới chính mình, để có được niềm vui, ơn bình an trong tương quan với anh chị em mình.

Các bậc hiền nhân có để lại câu thành ngữ như sau : dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi cách sống, bạn vẫn chỉ là con người cũ mà thôi. Dù đám đông dân chúng có ùn ùn tìm đến sông Gio-đan mà không sám hối, không thực hiện việc phải làm để đón Chúa, để được ơn cứu độ, hẳn việc tìm kiếm, mong chờ cũng chỉ là vô ích.

Ngày hôm nay, nếu Gioan có tái thế, ông vẫn hô to hãy chuẩn bị tâm hồn để Chúa đến. Lúc này đây dù vị linh mục có giảng giải hùng biện bằng Gioan, hẳn vị linh mục ấy cũng chỉ đang thực hiện sứ mạng dọn đường cho Chúa đến. Bậc sống hiện tại của ta là giám mục, linh mục, tu sĩ, hay giáo dân, ai cũng cần phải biết làm gì, phải sống bổn phận cụ thể ra sao để nhận lãnh ơn Chúa cứu độ.

Truyền thống sống đạo làm người, từ xưa tiền nhân chúng ta vẫn nhắc nhớ : hãy tu thân, tề gia rồi mới mong trị quốc, bình thiên hạ. Ngụ ý rằng : ai cũng phải bắt đầu cuộc từ bỏ, đơn giản và thực tế là tu thân, là thay thay đổi cuộc sống của mình theo tinh thần của “phúc âm”. Từ bỏ mình, cũng là câu trả lời : tôi phải làm gì ? Nhận biết phải làm gì, nghĩa là tôi rất cần niềm vui cho tôi, và tôi sẽ chia sẻ niềm vui cho anh chị em tôi. Niềm vui dồi dào, hạnh phúc càng to lớn. Niềm vui nào, bình an nào mới thực, nếu không chuẩn không đúng, niềm vui chóng qua và bình an giả tạo sẽ làm tâm hồn người ta trống rỗng và buồn chán mà thôi !

Trông đợi và hy vọng, không phải là những khẩu hiệu chung chung để thời gian dẫn người Kitô hữu vui hướng sự hoành tráng của hang đá bò lừa do tay người phàm làm ra. Niềm vui và bình an thật chỉ đến khi mà người trẻ khỏe, người già yếu, người thầy người thợ, hoặc trình độ cao, trình độ thấp, đều biết làm công việc bổn phận của mình cách tốt nhất để Chúa đến. Amen.

 

.

CHÚA NHẬT HỒNG GIỮA MÙA TÍM

Văn Hào

Trong Hiến chế Gaudium et Spes, công đồng Vaticanô 2 đã mở đầu với đường hướng mục vụ như sau: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày hôm nay cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Đức Kitô, và không có gì là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ”. Những môn đệ của Chúa Giêsu phải sao chép lại cuộc sống của Thầy mình. Ngài đã đến trần gian chung hòa kiếp sống đi sâu vào phận người, vui với người vui, khóc với người khóc và tiến nhận cái chết trên Thập giá để khai mở cho nhân loại chân trời ơn cứu độ. Cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu chính là căn nguyên của niềm vui, biến ưu sầu thành hoan lạc, biến khổ đau thành hạnh phúc cho con người chúng ta.

Nói tóm lại, đạo Công giáo không phải là một tôn giáo nhuốm vẻ bi thương và sầu khổ, cho dù khi nhìn lên Thánh giá, chúng ta dễ rơi vào tình cảm đạo đức mang dáng dấp khổ đau. Đạo hay con đường mà Chúa Giêsu mở toang ra cho chúng ta chính là con đường của niềm vui và hy vọng.

Đây cũng chính là chủ đề của phụng vụ Chúa nhật hôm nay, Chúa nhật Gaudete. Các bài đọc đều vang vọng lời hiệu triệu: “ Hãy vui lên vì Chúa đã gần đến, Đấng thánh Israel đang ở giữa ngươi”. Chúa Nhật hôm nay còn được gọi là ‘Chúa Nhật hồng giữa mùa tím’ với tâm tình hoan vui này.

Vui mừng và hy vọng

Các bài đọc Lời Chúa Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay đều mang âm hưởng của một niềm vui sâu xa. Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Sôphônia nhắc đi nhắc lại: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion, con cái Israel hãy nức lòng phấn khởi” (Sop 3, 14). Có một nét đặc thù nơi sứ điệp của Sophonia khi ông mời gọi nhà Israel cũng như thiếu nữ Sion hãy reo vui, vì Thiên Chúa sẽ thực hiện ơn cứu độ, đồng thời chính Ngài cũng sẽ vui mừng khi ở giữa dân và thể hiện lòng thương xót cho dân. “Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ.” (Sop 3, 17). Đức Chúa là căn nguyên của niềm vui và Ngài cũng cảm nhận niềm vui thực sự nơi chính Ngài.

Cùng với lời hiệu triệu hãy vui lên, vị tiên tri còn nhắn nhủ dân chúng “ Hỡi Sion đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời”(c 38).

Trong Tin mừng, Đức Giêsu cũng nhiều lần nhắc đi nhắc lại khẩu lệnh đó, mời gọi các học trò tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi Ngài để có được bình an và thoát vượt mọi sợ hãi.

Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã khởi đầu triều đại Giáo hoàng của mình với thông điệp ‘Đừng sợ’. Đây không phải là lời trấn an mang tính tâm lý nhưng là lời mời gọi chúng ta hãy đi sâu vào cảm thức đức tin để luôn bám chặt vào Thiên Chúa, Đấng mang lại niềm vui và sự an bình. Vì thế bắt đầu mùa vọng để khai mở năm thánh 2000, Ngài đã gửi đi bức thông điệp để nhắn nhủ mọi người, đặc biệt các bạn trẻ: “ Đừng sợ, hãy mở cửa đón Đức Kitô” (Don’t be afraid, open the door to Christ).

Kinh thánh Cựu ước kể lại câu chuyện về bà Sara vợ ông Abraham. Bà Sara đã già nua, đến tuổi gần đất xa trời, nhưng Đức Chúa lại nói cho bà biết bà sẽ sinh con trai. Có lẽ bà nghĩ Thiên Chúa cũng có đầu óc khôi hài, nên bà đã phì cười. Thần sứ hỏi tại sao bà cười, hay bà nghi ngờ và không tin lời Chúa nói. Bà chối phắt vì sợ (St 18, 16). Sự sợ hãi đã làm lịm tắt nụ cười trên đôi môi của bà. Nhưng khi bà sinh con, niềm vui đã trở lại, vì bà đã hoàn toàn tin tưởng nơi Chúa. Abraham được mệnh danh là cha của những kẻ tin. Còn bà Sara, (theo nguyên ngữ tiếng Aram, có nghĩa là ‘người đàn bà cười’), đã tìm lại niềm vui và thoát khỏi sợ hãi, vì cuối cùng bà cũng tin vào lời của Đức Chúa.

Vì vậy, để có được niềm vui, chúng ta phải quy hướng trọn vẹn về Chúa. Niềm vui và sự bình an chân thật không đến từ những ồn ào náo nhiệt bên ngoài của ngày lễ Giáng sinh, nhưng niềm vui phát xuất từ sâu tận bên trong tâm hồn. Chúng ta nhìn vào mẫu gương Mẹ Maria. Sau khi thưa lời xin vâng và đón nhận Đức Giêsu đến ẩn cư trong cung lòng mình, Mẹ liền vội vã lên đường với niềm vui tròn đầy. Vừa đến nhà bà chị họ Isave, Đức Maria đã thốt lên: “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa Đấng cứu chuộc tôi” (Lc 1, 39). Đó là niềm vui sâu xa trong tâm hồn của những ai luôn sống kết hợp với Chúa là Chúa của niềm vui.

Thưa ông chúng tôi phải làm gì?

Để có được niềm vui thực sự, chúng ta cũng phải đặt ra câu hỏi giống dân Do thái ngày xưa khi nghe Gioan rao giảng: “ Thưa ông, chúng tôi phải làm gì?”. Câu trả lời của Gioan trong Tin mừng hôm nay cũng là sứ điệp Giáo hội muốn nhắn gửi đến chúng ta :“ Ai có hai áo hãy chia cho người không có…. Đừng đòi hỏi quá mức đã ấn định … Chớ hà hiếp ai, cũng đừng chiếm đoạt của người khác, hãy bằng lòng với đồng lương của mình” (Lc 3, 10-14). Điều mà Thánh Gioan tiền hô khuyên nhủ dân chúng là hãy thành tâm chỉnh sửa lối sống, thực thi công bằng và sống bác ái đối với nhau. Con đường đến với Chúa và con đường đến với tha nhân cũng chỉ là một, bởi vì tha nhân chính là bí tích hiển thị dung mạo của Đức Kitô, như Ngài đã nói: “Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta trần trụi các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu hay ở tù các ngươi đã thăm nom” (Mt 25, 40).

Triết gia Nietzche đã có lần tuyên bố: “ Tha nhân là hỏa ngục”. Ông là một người vô thần, không tin Thiên Chúa nên không thể nào khám phá ra hình ảnh Thiên Chúa nơi những con người mà ông gặp gỡ hằng ngày. Ngược lại như Thánh Giacôbê đã viết: “ Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà giận ghét anh em, đó là kẻ nói dối”. Thánh Gioan tiền hô là người dọn đường để chúng ta đến với Chúa, và con đường để đến được với Chúa phải đi ngang qua tha nhân.

Trước lễ Giáng sinh, chúng ta vẫn thường gửi những cánh thiệp để chúc nhau một lễ Noel vui tươi và an bình. Niềm vui và sự bình an đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta biết giao hòa thực sự với Chúa và với nhau, gạt bỏ hết những thù hận và chia cách.

Có một vị linh mục đã có sáng kiến trang trí cho ngày lễ Giáng sinh bằng cách dựng một máng cỏ với cây Thánh giá bên cạnh thay cho cây Noel. Sáng kiến này khá độc đáo, bởi vì theo Ngài, Chúa Giêsu đến trần gian để bắt đầu cuộc hành trình yêu thương nơi chuồng bò Belem và kết thúc cuộc hành trình ấy nơi đỉnh cao Calvê. Máng cỏ Belem và Thập giá núi Sọ là hai thông số của một thực tại duy nhất, đó là tình yêu Thiên Chúa dành trao cho con người. Vì thế muốn hưởng nhận niềm vui Giáng sinh cách thật sự, chúng ta cũng phải cảm thấu và hiển thị tình yêu một cách rõ nét, không phải chỉ qua những buổi tham dự phụng vụ để đến với Chúa, mà còn trong trọn cuộc sống để đến với nhau, nhất là phải cải thiện mối tương quan với mọi người như lời nhắn nhủ của thánh Gioan tiền hô ngày hôm nay.

Kết luận

Chúa Nhật hôm nay còn được gọi là Chúa Nhật Gaudete, Chúa Nhật của niềm vui và cũng là Chúa Nhật hồng giữa mùa tím. Đạo Công giáo là đạo của niềm vui, đạo của mầu hồng tươi sáng. Chúa đến trần gian không phải để thiết lập một tôn giáo như người ta vẫn hay nghĩ tưởng. Hai ngàn năm trước, Ngài đi sâu vào phận người để công bố cho chúng ta một tin vui, đó là tin Thiên Chúa yêu thương con người. Tin vui hay Tin mừng này khởi đầu từ máng cỏ Belem và đạt đến đỉnh điểm khi Ngài bị treo thân trên Thập giá. Chúa Giêsu đến trần gian và mời gọi chúng ta nên thánh, nhưng như DonBosco đã nói cho các học sinh: “Bí quyết nên thánh là luôn sống vui tươi và chu toàn bổn phận của mình”. Cũng tương tự, Thánh Phanxicô Salê cũng dí dỏm nói rằng: “Một vị thánh buồn là một vị thánh thật đáng buồn”. Chớ gì chúng ta cảm nhận được niềm vui thánh thiện trong dịp lễ Giáng sinh sắp tới cũng như trong suốt cả ‘mùa vọng lớn’ là chính cuộc lữ hành đức tin chúng ta ngày hôm nay.

 

.

“MONG ĐỢI” HAY “PHÒNG CHỐNG” CHÚA ĐẾN

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Gio-an hướng tới điều gì, khi ông dùng các hình ảnh, cũng như những lời đe loi nặng nề, để kêu gọi dân chúng chuẩn bị đón đấng Mê-si-a; chính tôi, khi nghe những lời cảnh báo của Gio-an, bản thân tôi cũng thấy đấng Mê-si-a mà tôi đang mong đợi quả là đáng sợ; một đấng như thế ai mà không kinh khiếp:“Tay Người cầm nia rê sạch lúa trên sân; thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”? Đứng trước một nhân vật công thẳng như thế thì ai ai cũng thấy mình phải mau mau, không chút trì hoãn, để… thoát khỏi bị liệt vào hạng thóc lép, và mau chóng trở thành hạt thóc mẩy để khỏi bị thiêu đốt! Và nếu quả là như thế thật, thì tôi sẽ không gọi sự chuẩn bị này là ‘vọng = mong đợi’ nữa đâu, mà xin mạnhphép gọi là ‘vọng = canh chừng = phòng chống’ như khi người ta vẫn thường hô hoán phòng chống bão lụt hay thiên tai!

Rất may là dân chúng, và có lẽ ngay cả Gio-an, cũng chưa có một khái niệm rõ ràng nào về đấng mà lúc đó ông đang kêu gọi dân chúng chuẩn bị đón tiếp. Chính họ đã chẳng bị vẻ bên ngoài khổ hạnh và liêm chính của Gioan lôi cuốn là gì, tới độ nhiều người còn tự hỏi: “Biết đâu ông Gio-an lại chẳng là đấng Mê-si-a”. Diện mạo đích thực của đấng Mê-si-a vẫn còn là một ẩn số, ngay cả đối với Gio-an: “Thầy có thật là đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11:3). Và có lẽ đây cũng là lý do, tại sao Gio-an đã gởi tới dân chúng một sứ điệp khủng khiếp đến thế. Cựu Ước, với cao điểm và điển hình nhất là Gio-an, có mục đích chuẩn bị đón chào đấng Mê-si-a, tuy nhiên mới chỉ phác lên được một dung mạo lờ mờ không rõ gì lắm về Ngài; họ võ đoán về Con Người đó nhiều hơn: Ngài phải như một đấng cao cả đầy quyền uy, long trọng ngự xuống từ đám mây trời (trong văn phong khải huyền). Chính vì thế mà: khi Con Người đến giữa đoàn dân có sứ mạng đón tiếp Người, thì “… họ lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:10-11). Đơn giản là vì họ có biết Người là ai đâu; họ thậm chí đã có một hình ảnh quá sai lạc về Người.

Tác giả Lu-ca cũng như cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, khi ghi lại những lời của Gio-an, chắc chắn đã có một hiểu biết và nhận thức hoàn toàn khác, chẳng hạn: khi trích lời Gio-an “Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và lửa”, Lu-ca chắc phải hiểu Thánh Thần trong nội dung của biến cố ngày lễ Ngũ tuần, trong khi Gio-an thì hiểu đơn thuần là ‘sức mạnh của Đức Chúa’ theo quan niệm Cựu Ước, và ‘lửa’ ông hiểu trong nội dung lửa tình yêu nung nấu:“Thầy đến để ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12:49), thay vì là ngọn lửa hỏa hào thiêu hủy và luận phạt của Gio-an.

Vấn đề chính ở đây là: bạn và tôi, chúng ta là người của Cựu Ước như Gio-an, hay của Tân Ước như Lu-ca? Chúng ta ‘phòng chống’ hay ‘mong đợi’ Chúa đến? Chúng ta có hình ảnh Thiên Chúa như một Thẩm Phán công thẳng đáng sợ hay như một Người Cha giầu lòng thương xót thứ tha? Vì là Ki-tô hữu, hình ảnh về Thiên Chúa mà ta phải có chắc hẳn phải là hình ảnh Đức Giê-su đã cất công xuống thế, và bằng cái chết Thập Giá của Người, đã trình bày: “…Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời… Ai tin vào Người Con ấy thì không bị kết án” (Ga 3:16-18). Là Ki-tô hữu, ta không thể tự biện minh là mình chưa biết hoặc chưa hề đặt niềm tin tuyệt đối vào một Thiên Chúa như thế! Nếu biện mình như thế có nghĩa là ta đang minh nhiên phủ nhận bí tích Rửa Tội mà mình đã lãnh nhận, cũng như giá trị các Thánh Lễ mà ta vẫn cử hành hàng ngày. Vậy thì, bất chấp những lời lẽ đe loi khủng khiếp mà Gio-an – Cựu Ước gióng lên, tôi và bạn vẫn có thể, cùng với Lu-ca, lập lại những lời của Gio-an trong một nội dung Tin Mừng hoàn toàn khác: “Ngoài ra ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ”.

Lạy Chúa, xin cho con biết khao khát và mong đợi Chúa đến, vì con biết rằng chính Chúa hằng khát khao và mong đợi được đến với con, cho dầu (đúng hơn, chính vì) con tội lỗi, yếu đuối và bất xứng. Xin cho các yếu đuối và nhơ nhớp mà con mang nơi mình không làm con khiếp sợ Chúa đến, trái lại càng làm cho con thêm tin tưởng chờ mong Chúa nhiều hơn; y hệt như một bệnh nhân mắc chứng nan y hiểm nghèo, mong đợi thầy thuốc cao tay và từ nhân tới chữa cho mình lành bệnh. A-men.

 

.

HÃY SỐNG TRONG NIỀM VUI

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Lúc còn sinh thời, Mẹ Têrêxa Calcutta đã được thế giới biết đến nhờ vào lòng bao dung qua tình thương của Mẹ dành cho người nghèo! Tuy nhiên, điều mà thế giới ít biết đến, đó là món quà thiêng liêng mà mẹ dành tặng cho bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là: nụ cười.

Đã có nhiều cá nhân, đoàn thể, với những đối tượng khác nhau, họ đã xin Mẹ lời khuyên để sống bình an, hạnh phúc và tốt đẹp hơn! Khi được đề nghị như vậy, Mẹ đã nói: “Quí vị hãy về và ban tặng cho nhau những nụ cười… Hãy cười tươi với tất cả mọi người, bất luận người đó là ai! Với những nụ cười tươi như thế, quí vị sẽ lớn lên trong tình yêu hỗ tương”.

Còn đối với người Việt Nam, chúng ta cũng thấy mẫu gương này của Đấng Đáng Kính – Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận: ngài đã cười với mọi người, kể cả kẻ thù; ngài cười lúc bình an; khi chịu đau khổ; hiểu lầm, thử thách; ngài cười lúc tự do; nhưng cũng không thiếu những nụ cười ngay khi bị tù đầy khốn cùng nơi nhà lao… lý giải cho điều này, ngài đã chia sẻ trong sách Đường Hy Vọng như sau: “Vui với người thương con.Vui với người ghét con.Vui lúc con hớn hở.Vui lúc lòng con đau khổ tê tái.Vui lúc mọi người theo con.Vui lúc con cô đơn bị bỏ rơi.Vui tươi và làm cho mọi người đến với con cũng cảm thấy bầu khí vui tươi, mặc dù lòng con tan nát. Đó là thánh thiện hơn mọi sự ăn chay, hãm mình” (ĐHV. số 539), bởi lẽ: một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn.

Và ngài khuyên: “Con không có tiền? Con không có quà để tặng? Con không có gì cả. Con quên tặng họ niềm vui, tặng sự bình an mà thế gian không thể cho được, kho tàng vui tươi của con phải vô tận” (ĐHV. số 540).

Qua những mẫu gương đó, chắc hẳn chúng ta không khỏi thắc mắc rằng: tại sao các ngài có được niềm vui như thế? Thưa! Đơn giản: vì các ngài có Chúa trong mình và làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa và con người.

Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng hôm nay còn được gọi là Chúa Nhật của niềm vui, hay Chúa Nhật Hồng. Phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy vui lên trong Chúa; hãy cảm nghiệm được tình thương và sự giải thoát của Thiên Chúa trong cuộc đời, nhất là tình thương cứu chuộc qua con của Người là Đức Giêsu. Tuy nhiên, để làm sao có được niềm vui cứu độ! Đây là điều chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay.

  1. Ý nghĩa Lời Chúa

Khi nói về niềm vui, chúng ta không thể chấp nhận một niềm vui giả tạo, nhưng niềm vui phải khởi đi từ chính nội tâm. Tâm tình này đã được tiên tri Sôphônia cảm nghiệm trong thời của Ngài.

Khi đối diện với cảnh nhiễu nhương, loạn lạc, cướp bóc, trả thù, tất cả những cái đó đã làm cho dân chúng thời bấy giờ rơi vào tình trạng hoang mang, sợ hãi và làm hao mòn thể xác, héo hon tinh thần… Hơn nữa, khi sống trong thảm trạng cơ cực, nhục nhã, đắng cay, bên trong thì suy đồi đạo đức, bên ngoài thì họa xâm lăng tứ phía…. Điều này đã làm cho dân Chúa luôn khao khát, mong chờ từng ngày với hy vọng được giải thoát khỏi cảnh khổ đau sầu thương họ đang chịu…

Tuy nhiên, ngay thời điểm đó, tiên tri Sôphônia đã tìm được niềm vui khi nhận ra sự tha thứ của Thiên Chúa, nên ngài hân hoan kêu gọi cũng như loan báo cho dân tin vui mừng: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa” (Xp 3, 14-15).

Niềm vui ấy cũng được thánh Phaolô diễn tả qua bài đọc 2 trong thư gửi giáo đoàn Philipphê khi mời gọi và loan báo về ơn giải thoát qua sự kiện Chúa gần đến, ngài nói: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Ðức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến” (Pl 4,5).

Sang bài Tin Mừng, Gioan Tẩy Giả đã chỉ ra cho dân chúng thấy đâu là niềm vui thật và đâu là niềm vui giả tạo! Muốn có được niềm vui thực sự thì phải làm gì!

Giáo huấn của Gioan Tẩy Giả được bắt đầu bằng câu hỏi của dân chúng sau khi nghe ông rao giảng và kêu gọi sám hối để được hưởng trọn niềm vui của ơn cứu độ qua Đấng Cứu Thế: “Chúng tôi phải làm gì?”.

Để giúp cho mọi thành phần được ơn cứu độ, và hưởng trọn niềm vui đích thực, Gioan đã mời gọi họ dân chúng sống tình huynh đệ, sẻ chia: “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”; với những người thu thuế, ngài dạy họ:  “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”; còn với quân nhân, Gioan lên tiếng dạy họ cách dứt khoát: “Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.

Những lời dạy của Gioan thật chí lý, thấu tình và thiết thực, không vòng vo, không trừu tượng, cũng như không quá khó! Những đường lối mà Gioan định hướng cho dân, ai cũng có thể làm được, nếu họ có đủ lòng khiêm tốn, sám hối và chân thành, nhất là nếu họ đặt mục đích tối hậu của cuộc đời mình nơi Chúa.

Khi dạy như thế, Gioan đã không buộc họ phải thay đổi nghề nghiệp, nhưng nếu để được hưởng trọn niềm vui đích thực thì phải thay đổi lối sống và cung cách hành xử.

2. Sống Lời Chúa

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta: hãy sám hối để thay đổi lối sống cho phù hợp với thánh ý Chúa.

Nếu lối sống cũ là một lối sống ích kỷ, nhỏ nhen, ưa sống hào nhoáng, hình thức bên ngoài, thì từ nay, hãy sống quảng đại, bao dung, tha thứ, nhất là tình thương ấy được ưu tiên cho người nghèo.

Nếu trước kia, chúng ta sống kiểu bề trên kẻ cả, lộng quyền, gian tham, bóc lột, thì từ nay, chúng ta phải sống trong tinh thần phục vụ, mình vì mọi người, chứ không phải mọi người vì mình, xây dựng sự công bằng, bác ái với nhau.

Nếu trước kia, chúng ta thường hay nói hành, nói xấu, vu vạ cáo gian, nhất là nhân danh điều tốt để làm chứng gian hại người, thì từ nay, chúng ta hãy sống trong sự thật, đơn sơ, chân thành…

Sống được như thế, chúng ta sẽ có niềm vui Tin Mừng đích thực, bởi tất cả những điều thiện hảo đó chính là hoa trái của sự sám hối.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con có được niềm vui sâu xa từ bên trong tâm hồn bằng việc thay đổi lối sống cho phù hợp với tinh thần của Chúa. Có được niềm vui đó, chúng con mới xứng đáng trở thành con của Chúa. Amen.

 

.

CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG_C

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Trong thời gian mùa Vọng chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa, Chúa nhật hôm nay được gọi là “Chúa nhật vui mừng”, tiếng La- tinh là Gau-đa-tê, vì trong những bài Kinh thánh lời Chúa chứa đựng những niềm vui mừng hy vọng.

Trong bài đọc một, ngôn sứ kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và sửa đổi đời sống vì ngày Thiên Chúa đến đã gần kề.  Ngôn sứ khích lệ và kêu gọi dân chúng đang trong tình trạng đau khổ, hãy vui lên vì niềm hy vọng của họ sắp thành tựu. Ngài cho họ biết “Án lệnh phạt ngươi Thiên Chúa đã rút lại, và thù địch của ngươi Ngài đã đẩy lùi xa.”

Trong bài đọc 2, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu hãy vui mừng, và phải vui luôn trong niềm vui của Thiên Chúa, vì khi một người đã có Chúa, họ không còn thiếu một sự gì nữa cả.

Câu Thánh vịnh đáp ca hôm nay cũng kêu gọi chúng ta “Hãy nhảy mừng và ca ngợi vì ở giữa ngươi có Đấng thánh của Israel thật cao cả.”  Thánh vịnh cho chúng ta biết Thiên Chúa chính là sức mạnh và là Đấng cứu độ của chúng ta.  Như thế chúng ta thấy Giáo hội muốn chúng ta sửa soạn và chuẩn bị mừng ngày giáng sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ nhân loại, với một tinh thần đầy hy vọng và vui mừng.

Như mọi người đều biết, hy vọng và vui mừng là điều rất quan trọng và cần thiết cho đời sống chúng ta trong xã hội ngày nay.  Chúng ta nhận thấy tiền bạc, vật chất và thú vui không đem đến hy vọng và vui mừng đích thực được. Đối với người Ki-tô hữu chúng ta, chúng ta nhận biết chỉ tìm được vui mừng đích thực với sự hiện diện của Chúa trong đời sống, và hy vọng chỉ đến qua việc sống và thực hành lời Chúa mà thôi, và tùy vào quyết định và hành động, cũng như thái độ và cuộc sống của chúng ta.

Tôi xin đưa ra 1 thí dụ sau đây. Ngày nay, khi chúng ta muốn lái xe đi đâu chúng ta có một dụng cụ điện tử giúp chúng ta, đó là cái GPS, hay gọi nôm na là dụng cụ chỉ đường.  Dụng cụ này chỉ đường, và nói cho chúng ta biết lộ trình tới địa điểm.  Nhưng máy này chỉ chỉ đường và báo cho chúng ta biết chi tiết thôi.  Chúng ta có đi đúng đường và đến đúng chỗ tùy vào chúng ta là tài xế. Tất cả những ai lái xe đều biết công hiệu của đèn sinh-an là để báo quẹo phải hay trái mà thôi. Chiếc xe có quẹo hay không là do người tài xế điều khiển, do chúng ta làm việc đó.  Người tài xế phải vặn tay lái thì xe mới di chuyển, mới đổi hướng.

Ông bà anh chị em thân mến. Sự kiện này giúp chúng ta hiểu ý nghĩa lời Chúa trong bài Tin mừng hôm nay một cách rõ ràng hơn. Thật vậy, bài Tin mừng cho chúng ta biết dân chúng khắp nơi tuôn đến bờ sông Gio-đan để nghe lời rao giảng của Gioan Tẩy giả, chuẩn bị đón chờ sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế mà họ đang trông chờ từ lâu.  Bài Tin mừng còn cho chúng ta biết có 3 nhóm dân chúng: nhóm thứ nhất là những người dân bình thường, thứ nhì là những người thu thuế, và thứ ba là quân nhân.  Cả 3 nhóm người này cùng hỏi một câu giống nhau “Chúng tôi phải làm gì?” Chúng ta thấy Gioan đã bảo họ phải lái “chiếc xe cuộc sống” của họ, vào con đường yêu thương và hy sinh, bác ái và công bằng, và ngay thẳng và thành thật.

Chúng ta có thể so sánh lời dạy dỗ, chỉ bảo của thánh Gioan Tiền hô cho dân chúng trên đây, như lời chỉ dẫn của dụng cụ GPS cho tài xế. Và chúng ta cũng nhận thấy, người tài xế có đi đúng đường và đến đúng địa điểm một cách an toàn và chắc chắn, tùy thuộc vào hành động của tài xế có nghe lời báo, và hướng dẫn của dụng cụ GPS hay không. Cũng vậy, tùy vào quyết định và hành động của dân chúng có nghe và làm theo lời của Gioan chỉ bảo hay không, để chuẩn bị một cách tốt đẹp cho Đấng Cứu Thế xuất hiện.

Ông bà anh chị em thân mến.  Trong mùa Vọng này, Giáo hội kêu gọi mọi người chúng ta chuẩn bị đón mừng sinh nhật của Đấng Cứu Thế, và ngày Chúa đến lần thứ hai, và như dân chúng ngày xưa, chúng ta cũng hỏi thánh Gioan Tiền hô: “Tôi phải làm gì?”

Thưa ông bà anh chị em.  Trước hết, tôi nghĩ rằng chúng ta hãy cho ngài biết chúng ta thuộc vào nhóm nào. Nếu chúng ta ở trong nhóm những người dân bình thường, thánh Gioan kêu gọi chúng ta hãy từ bỏ nếp sống ích kỷ và thờ ơ, hãy lái chiếc xe cuộc sống của mình vào con đường siêng năng cầu nguyện, gia tăng lòng yêu mến Chúa, có đời sống bác ái và quảng đại hơn.

Nếu chúng ta ở trong nhóm những người thương mại, buôn bán như những người thu thuế, chúng ta hãy từ bỏ đời sống đức tin hình thức bề ngoài, từ bỏ sự tham lam và gian dối, và hãy lèo lái cuộc sống vào con đường công bằng, con đường sốt sắng chân thành hơn, con đường đúng với danh nghĩa Ki-tô hữu, và sống gần gũi với Chúa hơn.

Nếu chúng ta ở trong nhóm những người binh sĩ, hay những người có bổn phận và trách nhiệm hướng dẫn, dạy dỗ người khác, thánh Gio-an khuyên chúng ta hãy từ bỏ tánh kiêu căng, tự cao, đàn áp hay hà hiếp người khác, và lái cuộc sống vào con đường khiêm nhường, bằng lòng với những gì chúng ta có, hay đối xử với người khác một cách tốt đẹp và thân thiện hơn.

Đây là dụng cụ chỉ đường, chỉ bảo chúng ta lái cuộc sống của chúng ta vào con đường tốt lành và đúng để đến đích điểm, và cũng là lời Chúa chỉ bảo chúng ta chuẩn bị cuộc sống, để chúng ta sửa soạn cho ngày mừng ngày sinh nhật của Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, hay ngày trở lại của Thiên Chúa.    Nhưng ông bà anh chị em thân mến, chiếc xe cuộc sống của chúng ta có tới đúng đích điểm, hay tâm hồn chúng ta tràn đầy hy vọng và vui mừng, hay lãnh nhận hồng ân Chúa không, đòi hỏi chúng ta phải quyết định và có hành động, chúng ta phải áp dụng những lời chỉ bảo của thánh Gioan vào trong cuộc sống.  Lời Chúa không những là máy chỉ đường, mà còn là nguồn mạch của ân sủng, vui mừng và hy vọng cho cuộc sống của người Ki-tô hữu.  Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan để mỗi người chúng ta có một quyết định, và Chúa cũng ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta để lái chiếc xe cuộc sống của chúng ta theo đúng con đường lời Chúa chỉ bảo.

Xin Chúa ban ơn lành cho mỗi người chúng ta để chúng ta thành tâm lắng nghe và thực hành lời Chúa chỉ bảo, chuẩn bị hang đá tâm hồn một cách tốt đẹp cho Chúa ngự. Chúng ta vui mừng vì Chúa đã đến gần. Nhất là khi chúng ta họp nhau trong Thánh lễ thì Chúa rất gần. Ngài đang hiện diện giữa cộng đoàn chúng ta.

 

.

NIỀM VUI CỦA TÌNH YÊU TRAO BAN

Lm. Giuse Trực

Báo chí thế giới hiện đang đồng loạt đưa tin về việc người sáng lập ra mạng xã hội Facebook – Mark Zuckerberg – tuyên bố sẽ hiến tặng 99% cổ phần Facebook để phục vụ cho các mục đích từ thiện với tổng trị giá vào khoảng 45 tỉ đô la. Hành động này thể hiện niềm vui khôn tả của vợ chồng Mark Zuckerberg vì tình yêu của họ đã đơm hoa kết trái, là cô con gái – Max. Niềm vui của tình yêu luôn luôn là một tình yêu biết sẻ chia.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài Đọc I: Xp 3, 14-18a

Vào thế kỷ VII (TCN), đất nước Do Thái rơi vào tình trạng tồi tệ: đạo đức suy đồi, hiểm họa xâm lăng đang chờ chực… Tiên tri Xôphônia được sai đến để kêu gọi dân chúng: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion!” Lý do để Xôphônia rao giảng điều đó là vì: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa”.Tình thương tha thứ của Thiên Chúa sẽ đem đến cho họ niềm vui, mặc dù họ không xứng đáng.

  1. Tin Mừng: Lc 3, 10-18

Bằng cuộc sống mang tính tiên tri, với lối sống hy sinh nhiệm nhặt, qua lời rao giảng mạnh mẽ của Gioan, nhiều người đã đến để xin chịu thanh tẩy tỏ lòng sám hối ăn năn.

Những người này gồm có dân chúng nói chung, những người thu thuế và binh lính của triều đình. Họ là đại diện cho mọi hạng người: giới bình dân, công nhân viên chức, các quan chức. Mỗi hạng người Gioan đều chỉ cho họ những việc làm cụ thể phù hợp với tình trạng và hoàn cảnh của họ. Gioan không buộc họ phải từ bỏ nghề nghiệp, nhưng mời gọi họ hãy sống tốt trong nghề nghiệp, trong hoàn cảnh của mình. Điểm chính yếu trong giáo huấn của Gioan là dù là ai, làm gì, ở đâu cũng phải biết sống công chính thánh thiện và thực thi tình bác ái.

Như vậy đức bác ái, tình yêu thương, sự sẻ chia sẽ đem đến cho chúng ta niềm vui. Nói cách khác, niềm vui chúng ta đón nhận từ Thiên Chúa chính là niềm vui của yêu thương trao ban. Chính tình yêu thương này đem đến cho chúng ta ơn cứu độ.

II. NIỀM VUI  CỦA TÌNH YÊU TRAO BAN

Để có được niềm vui sâu thẳm trong tâm hồn, đòi hỏi chúng ta phải có tình yêu thương để biết sống chia sẻ với mọi người như Thiên Chúa đã yêu thương và chia sẻ chính Con Một của Ngài cho chúng ta.

Tuần thứ 3 Mùa Vọng, và đặc biệt là ngày khai mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót tại các nhà thờ Chánh Tòa, càng nhắc nhở chúng ta về niềm vui khi biết sống trao ban, niềm vui của tình yêu thương.

Thiên Chúa Cha đã trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại. Chúa Giêsu đã hy sinh cả mạng sống của Ngài cho con người chúng ta. Tất cả chỉ vì yêu thương. Đó là bản chất của Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Tình yêu”. Tình yêu này là một tình yêu sống động, tình yêu biết vượt ra khỏi chính mình để trao ban cho người khác những gì là quý giá nhất.

Biết bao nhiêu vị thánh đã hy sinh cả cuộc đời mình để sống bác ái, chăm lo cho những người nghèo khổ, bất hạnh như Thánh Vinh Sơn, Mẹ Têrêxa Calcutta…

Biết bao nhiêu người cha, người mẹ đã hy sinh cho gia đình, cho con cái mình được ăn no, mặc ấm, ăn ngon, mặc đẹp, được học hành, được công danh sự nghiệp…

Biết bao nhiêu mạnh thường quân đã góp phần vào việc từ thiện bác ái của xã hội…

Những người biết sống trao ban là những người có tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu đó thúc bách để họ đem đến niềm vui cho người khác. Chính lúc đó, họ cũng co được niềm vui.

Để có được niềm vui của tình yêu trao ban, không phải chúng ta chỉ mong chờ đón nhận từ Thiên Chúa, từ người khác, mà chúng ta còn phải biết tập luyện và thực hành để biết sống trao ban.

III. ĐỂ CÓ ĐƯỢC NIỀM VUI TRAO BAN

  1. Không ích kỷ

Thánh Phaolô nhắn nhủ các tín hữu Philipphê rằng: “Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã đến gần”. Lời khuyên của vị tông đồ là trong khi mong chờ Chúa đến, chúng ta phải sống rộng rãi, đừng ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.

Những ai chỉ nghĩ đến bản thân mình sẽ không bao giờ đem đến cho người khác niềm vui, ngược lại, còn làm cho người ta khó chịu vì người ích kỷ không muốn cho đi, mà chỉ thu gom cho mình.

Ở vùng quê, chúng ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh của những ông bà già cái gì cũng để dành cho con cháu, hàng xóm mượn vật gì cũng cho, có bánh trái chia mỗi người một ít… Họ luôn luôn cho những người xung quanh cảm giác dễ chịu. Ngược lại, có những người không ai đụng được gì của họ. Cái gì cũng cất, cũng giấu, sợ mất, sợ hư hao, gặp gì cũng xin, đi đâu, làm gì cũng tìm kiếm để gom về nhà của mình… Họ làm cho người khác khó chịu vì sự ích kỷ của họ. “Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa, rộng rãi”.

Sự ích kỷ không chỉ thể hiện qua vật chất, mà nguy hiểm nhất là nó làm cho tâm tính của con người bị băng hoại. Biết bao nhiêu những thảm trạng trong cuộc sống cũng chỉ vì sự ích kỷ. Hận thù cũng chỉ vì không tha thứ được cho người khác. Cướp của, giết người cũng chỉ vì lợi ích cá nhân. Tà dâm, gian dâm, ngoại tình cũng chỉ vì yêu chính bản thân mình. Ngừa thai, phá thai cũng chỉ vì ích kỷ…

  1. Biết chia sẻ

Gioan tiền hô đã chỉ cho dân chúng con đường để hoán cải: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Đó là những việc làm hết sức cụ thể để chúng ta biết chia sẻ cho người khác, nhất là những người nghèo.

Sứ điệp chính yếu của mùa Vọng là sự chuẩn bị để đón nhận lòng từ ái vô biên của Thiên Chúa. Sự mong chờ đó thúc bách chúng ta ra đi và thực thi tình bác ái. Vì thế việc làm phúc bố thí là hành động cụ thể nhất của việc sống mùa Vọng.

Quỹ Lòng Thương Xót mà Giáo phận Cần Thơ đã đề ra trong mùa Vọng của Năm Thánh này cần được nhiều người quan tâm thực hiện.

Trước hết để đền bù tội lỗi của chúng ta. Chúng ta thường xuyên đi xưng tội và đã làm việc đền tội mà Linh mục đã đề nghị, nhưng vài kinh Kính Mừng, thậm chí là một chuỗi Mân Côi cũng đâu xứng đáng với những tội lỗi của chúng ta, nó chỉ là việc đền tội tượng trưng. Điều quan trọng là sau mỗi lần xưng tội, chúng ta có ý hy sinh, hãm mình một cách cụ thể để đền tội. Việc làm phúc bố thí là một trong những việc làm cụ thể đó.

Kế đến, việc góp quỹ Lòng Thương Xót còn là để giúp cho những người nghèo khó chung quanh chúng ta, bất kể lương giáo. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”.

Sẽ có nhiều người nói: “Tôi nghèo muốn chết lấy gì mà giúp người nghèo?!!!”. Điều quan trọng là chúng ta có dám hy sinh để cho đi hay không. Đồng tiền của bà góa rất nhỏ bé, nhưng tấm lòng của bà rất lớn, vì bà đã dám “cho đi tất cả những gì để nuôi sống bản thân bà”. Hơn thế nữa, chúng ta cho đi cũng là để lãnh nhận. Cho đi tấm lòng của mình, để nhận lại tấm lòng của Thiên Chúa và người khác.

Tóm lại, chúng ta đón nhận niềm vui từ Tình Yêu trao ban của Thiên Chúa Cha và Tình Yêu nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì chúng ta cũng được mời gọi chia sẻ niềm vui cho mọi người bằng việc sống trao ban.

Chúng ta chỉ có thể trao ban khi biết sống rộng rãi, không ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình. Chúng ta chỉ có thể trao ban khi chúng ta biết làm phúc bố thí, biết san sẻ cho những người nghèo khổ…

Lạy Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, xin thương xót chúng con!

 

.

AN VÀ VUI

Huệ Minh

Những lần đi tham dự tiệc cưới, người ta thường hay chúc cho những đôi tân hôn với những lời chúc hết sức dễ thương: chúc cho hai bạn được an vui, hạnh phúc. Và trong những ngày đầu năm người ta vẫn thường hay chúc nhau: chúc anh, chúc chị, chúc ông, chúc bà sang nắm mới được an vui, hạnh phúc. Chẳng biết vô tình hay hữu ý mà chữ an vui nó dính liền với nhau. Nếu suy nghĩ như vậy thì ta có thể nói là khi nào tâm hồn ta bình an thì lòng ta mới vui được. Mà thật là thế ! Không có niềm vui trọn vẹn nếu như tâm hồn người đó không được vui.

Thánh Lễ Chúa Nhật 3 Mùa Vọng người ta vẫn thường gọi là Chúa nhật hồng với ý chỉ rằng Chúa gần đến rồi, hãy vui lên, vui lên vì Chúa sắp đến.

Thi thoảng, chúng ta vẫn thường nghe hay thường hát với nhau: Vui lên anh em hãy mừng vui trong Chúa ! Vang lên câu ca ta tạ ơn Thiên Chúa ! Người đã đoái đến viếng thăm người chúng ta ! Hallê Hallê lui ! Hallêluia ! Một khách quý, một thượng khách đến với gia đình ta, đến với cộng đoàn ta thì ta đã cảm nhận niềm vui ấy như thế nào huống hồ chi Chúa chính là vị Thượng thượng khách của mỗi người chúng ta. Lẽ nào Chúa đến với mỗi người chúng ta mà chúng ta lại buồn ?

Hơn ai hết, Israel có cái cảm nghiệm hết sức sâu sắc về sự mong chờ Chúa đến. Trong lịch sử cứu độ, Chúa đã bằng cách này cách khác đến với dân qua các ngôn sứ, qua các sấm ngôn. Một trong những sấm ngôn, ngôn sứ loan báo niềm vui Chúa đến đó chính là ngôn sứ Sôphônia. Sấm ngôn mà chúng ta vừa nghe thật là hay:

Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion,

hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi!

Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi !

Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại,thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa.

Đức Vua của Ísrael đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa.

Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ.

Ngày ấy, người ta sẽ bảo Giêrusalem:

“Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời.”

Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi,

Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng.

Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ,

sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi.

Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội.”

Thiên Chúa cũng mang trong mình cảm thức của con người, có lúc Ngài vui và cũng có lúc Ngài buồn. Vui khi thấy dân chúng nghe lời của Ngài và đi theo đường ngay nẻo chính mà Ngài chỉ vẽ. Buồn khi mà dân chúng cứng đầu cứng cổ. Bằng chứng, qua lời sấm ngôn chúng ta thấy đó. Thiên Chúa tức giận nên ra án phạt nhưng rồi khi nguôi cơn giận thì Ngài lại thương. Giá như mà dân Israel chịu đi theo con đường mà Thiên Chúa vạch ra thì đâu có chuyện tai ương, đâu có chuyện án phạt.

Dừng lại một chút để chúng ta thấy tại sao có tai ương, tại sao có án phạt ? Đơn giản có tai ương án phạt vì dân Israel – dân Do Thái – sống có Chúa mà như không có Chúa trong cuộc đời của họ vậy. Họ đã đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của họ. Khi họ đẩy Thiên Chúa ra khỏi đời họ thì họ thoải mái sống bất công, chèn ép những người nghèo, những người thấp cổ bé họng hơn họ.

Đọc lại lịch sử cứu độ thời Cựu Ước, ta sẽ thấy rõ phần nào của cái kiếp nô lệ. Đã nghèo mà còn rơi vào cảnh nô lệ nữa thì coi như đời đã tàn.

Sang thời Tân Ước tưởng chừng khá hơn nhưng có khá gì đâu ? Khi người ta đến hỏi thì Gioan trả lời một cách mau chóng, một cách thẳng thừng như chúng ta vừa nghe ông trả lời với dân. Không phải ngẫu nhiên mà Gioan lại trả lời một cách huỵt tẹt như thế này: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Câu trả lời này đủ hiểu là cuộc sống của của những người Do Thái thời Gioan như thế nào.

Và, gần nhất, ngay cái thời buổi hiện tại này, chuyện bất công trong xã hội, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội còn quá nhiều. Người ta nói cũng không sai rằng người giàu càng giàu thêm và người nghèo càng nghèo thêm. Vì sao ? Vì tình trạng bất công cứ lan tràn trong xã hội.

Thế nên, lời của Gioan hôm nay rất có giá. Gioan trả lời quá sức là thực tế: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.”

Bi đát của cuộc đời ngày hôm nay đó chính là tình trạng “sống chết mặc bay”. Người ta bất chấp lương tâm, bất chấp đạo đức của con người để rồi chỉ cần biết sao cho đầy túi tiền của họ là được rồi. Người ta vẫn mang trong mình cái tâm trạng hơn người khác là bắt đầu lên mày lên mặt và tìm đủ mọi cách để hà hiếp những kẻ dưới quyền mình, những kẻ thấp cổ bé họng hơn mình. Thực tế cuộc đời đã cho ta thấy quá rõ vai trò địa vị của những người nghèo trong cuộc sống và vì thế Gioan khuyên nhủ rất chính xác: Đừng hà hiếp ai ! Đừng tống tiền ai !
Thật sự ra mà nói, hà hiếp, tống tiền người khác thì đời sống vật chất thoải mái thật đấy vì nhà cửa của họ thường sung túc, cao sang hơn người nghèo. Nhìn bề ngoài, những người giàu có có vẻ hạnh phúc hơn người nghèo, đó là điều hiển nhiên nhưng chưa chắc như vậy. Có chắc chắn rằng là giàu có là hạnh phúc hay không ? Nếu được nghe những người giàu tâm sự ắt hẳn chúng ta, những người nghèo sẽ vở lỡ ngay ! Vì lẽ đa phần người giàu họ hiếm có hạnh phúc lắm. Có chăng thì thoả mãn được nhu cầu vật chất của con người nhưng con người đâu sống bởi vật chất mà còn cả một cái khoảng trời tinh thần rất lớn.

Nhớ lời của Thánh Gioan nói thật hay: Hãy an phận ! Vấn đề nằm ở chỗ đó đó ! Không phải là chuyện giàu hay nghèo nhưng là chuyện ta có cảm thấy cuộc đời ta, phận người của ta có an hay không mà thôi !

Một chuyện kể có thật. Ở một xứ đạo nghèo nọ, có anh chàng kia bỗng dưng không thấy lui tới nhà thờ nữa. Cha xứ hỏi anh ấy tại sao anh không đến nhà thờ thì anh nói là tại vì anh đi chiếc xe đạp cọc cạch đến nhà thờ anh ta cảm thấy nhục quá ! Để khi nào anh có xe máy thì anh sẽ đến nhà thờ ! Thời gian sau, cha xứ thấy anh đi xe máy nhưng anh vẫn không đến nhà thờ. Cha xứ thắc mắc và hỏi tại sao anh không đến nhà thờ thì anh thiệt tình nói là anh cảm thấy nhục, nhục vì lẽ nhà anh ở còn xập xệ !

Thế đấy ! Lòng tham của con người hình như nó vô đáy ! Tưởng chừng có chiếc xe máy thì cũng an được cái phận nghèo nhưng chưa ! Còn cái nhà ! Thế nhưng, chưa chắc có cái nhà là anh ta chưa cảm thấy hết nhục vì khi anh ta xây được nhà thì người ta đã ở cao ốc cả rồi !

Cái vòng luẩn quẩn của sự bất an nó cứ đeo bám anh ta để rồi anh ta không bao giờ cảm thấy an được. Và không thấy an với tất cả những gì mình có thì làm sao cuộc đời của anh có thể vui được.

Ta cũng vậy thôi, ta dừng lại một chút để nhìn ta. Thời còn bao cấp, ta ước ao có được chiếc xe đời 81 như nhà hàng xóm nhưng nay, ta có cả một chiếc xe Dream, ngoài ước mơ của ta thuở ấy nhưng ta đâu có chịu dừng lại ở chiếc xe Dream. Khi có Dream rồi, ta lại ước mơ cao hơn nữa để rồi mãi mãi cuộc đời ta ở trong tâm trạng bất an.

Ta cũng giống như cái anh chàng ở xứ đạo nghèo kia. Khi ước mơ của ta thành hiện thực thì ta không dừng lại ở ước mơ đó mà lại đi tìm cái ước mơ cao hơn. Không phải ước mơ là xấu, không phải có óc cầu tiến là xấu nhưng chuyện quan trọng là ta phải biết dừng ước mơ của ta ở đâu và óc cầu tiến của ta như thế nào là đủ. Chuyện cần thiết là ta có cảm thấy ta an khi ta được như vậy hay không ? Khi ta cảm thấy không đủ, không bằng người khác thì ta lại cứ đi tìm và đi tìm mãi có bao giờ thoả mãn lòng tham của con người. Khi nào ta cảm thấy ta đủ thì ta mới vui, ta mới bình an được.

Tâm thư của Thánh Gioan vừa gửi cho ta nơi cộng đoàn Philip thật là hay: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su

Tâm tình của Thánh Phaolô quá rõ ràng, chuyện của ta, chuyện cuộc đời của ta, ta cứ đem đi giãi bày cho Thiên Chúa và Ngài sẽ ban cho ta những điều mà ta thỉnh nguyện. Khi ta giãi bày với Thiên Chúa, ta sẽ được sự bình an thật, bình an của Chúa trong đời ta. Cuộc đời ta, nhìn lên không bằng ai như người ta vẫn thường nói nhưng khi nhìn xuống ta hơn được nhiều người. Khi ta đặt mình trước mặt Chúa, ta thấy Chúa thương ta nhiều hơn ta tưởng, ấy vậy mà ta vẫn cứ để cho cuộc đời ta cứ mãi loay hoay với nhiều thứ phù du mau qua chóng tàn.

Khi và chỉ khi ta chìm đắm trong cầu nguyện ta mới có được sự bình an và niềm vui thật.

Thật sự thì Chúa đã đến rồi, Chúa đã đến trong thế gian này và một lúc nào đó bất chợt Chúa đến với cuộc đời của mỗi người chúng ta. Chúa đến với mỗi người chúng ta như kẻ trộm như Chúa đã từng báo trước vậy. Chúa đến vào lúc chúng ta không ngờ và vào giờ mà chúng ta không thể nào biết được. Chuyện quan trọng, chuyện cần thiết là ta phải giữ sao cho tâm hồn của ta được bình an đển khi Chúa đến ta có được niềm vui trọn vẹn. Khi ta thấy Chúa là đủ cho chúng ta, Chúa là tất cả cho chúng ta thì cuộc sống ta mới an bình thư thái thật sự.

Vinh danh Thiên Chúa trên trời – bình an dưới thế cho người thiện tâm ! Bình an chỉ dành cho những ai thiện tâm, những ai có tấm lòng biết chia sẻ, biết quan tâm đến người nghèo.

Nguyện xin Chúa đến và ở lại với mỗi người chúng ta để tâm hồn chúng ta được tràn đầy niềm vui, tràn đầy bình an thật sự.

 

.

CHIA SẺ TÌNH THƯƠNG VÀ

NIỀM VUI CỦA CHÚA CHO THA NHÂN

HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Lc 3,10-18

(10) Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?” (11) Ông trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. (12) Cũng có những người thu thuế đến chịu phép Rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” (13) Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”. (14) Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì? Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”.(15) Hồi đó, dân đang trông ngóng và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi về ông Gio-an: Biết đâu ông chẳng là Đấng Mê-si-a! (16) Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước. Nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và Lửa. (17) Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào Lửa không hề tắt mà đốt đi”. (18) Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin mừng cho họ.

  1. Ý CHÍNH: CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?

Bài Tin mừng hôm nay gồm có 3 câu trả lời cho ba hạng người về những việc họ phải làm để sám hối: dân chúng phải chia sẻ cơm áo cho người nghèo, người thu thuế phải ăn ở công bình và binh lính phải biết tôn trọng tha nhân. Gio-an cho biết phép rửa bằng nước của ông chỉ là một phương thế chuẩn bị lòng trí dân chúng để họ được lãnh phép rửa mới trong Thánh Thần và Lửa, do Đấng Thiên Sai sắp đến thực hiện, mà ông không đáng làm nô lệ cho Người. Người sẽ xét xử để thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ vào ngày tận thế.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 10-11: + “Ai có hai áo thì chia cho người không có”…: Chia sẻ cơm áo vật chất cụ thể là một yêu cầu tối thiểu mà dân chúng phải làm để biểu lộ lòng sám hối.

– C 12-14: + Những người thu thế: Bọn người này thường bị dân chúng khinh thường thù ghét, vì họ đã cộng tác thu thuế cho người Rô-ma. Rồi khi làm việc này, họ còn sách nhiễu dân chúng. Họ bị dân chúng liệt vào loại người tội lỗi công khai (x. Lc 5,30). Gio-an khuyên họ phải tránh bóc lột kẻ khác bất công và không được tham lam thu quá mức thuế quy định. + Binh lính: Đây chắc không phải là binh lính Rô-ma vốn chỉ ở trong đồn binh, chứ không đi trà trộn với đám đông dân chúng. Đây cũng không phải lính Do thái, vì ngừơi Rô-ma cấm nước bị chiếm đóng tổ chức quân đội. Có lẽ đây là dân quân tự vệ thường đi theo bảo vệ người thu thuế. Họ là những người vừa có sức mạnh lại vừa có khí giới, nên thường hiếp đáp kẻ yếu, nên bị dân chúng căm ghét giống như bọn thu thuế tội lỗi. Khi gọi bọn người này là binh lính, có lẽ Lu-ca muốn nói lên tính phổ quát của lời rao giảng của Gioan Tiền Sứ. Tuy không buộc họ phải đổi nghề, nhưng ông khuyên họ phải giữ công bình, tránh cáo gian bách hại người vô tội và hãy bằng lòng với đồng lương của mình.

– C 15-16: + Đấng Mê-si-a: Chữ Hy lạp Chris-tos có nghĩa là “Người được xức dầu”, tương đương với chữ Mê-si-a trong tiếng Do thái (nghĩa là Đấng Thiên Sai). Ở đây tác giả Tin mừng dùng từ Mê-si-a vì ông viết Tin Mừng cho người Do thái theo đạo Công giáo. Tuy nhiên dân Do thái khi ấy lại hiểu từ Mê-si-a theo nghĩa ái quốc cực đoan. Họ mong chờ Đấng Thiên Sai đến lãnh đạo dân chống lại ách thống trị của ngoại bang (x Lc 23,2). + Cởi quai dép: Đây là hành vi phục vụ dành cho nô lệ ngoại quốc. Người Do thái không có quyền đòi người giúp việc Do thái làm điều này, vì họ là“dòng dõi tổ phụ Áp-ra-ham”, và thuộc dân được Chúa chọn (x. Ga 8,33).

– C 17-18: + Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: Gio-an mô tả Đấng Mê-si-a như một vị Thẩm Phán của ngày tận thế: Đấng Thẩm Phán sẽ đến tách biệt người lành ra khỏi kẻ dữ, giống như chủ ruộng tách lúa thóc khỏi rơm rạ. + Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm…: Sau khi đập lúa trước gió, hạt thóc nặng hơn sẽ rơi xuống thúng và được cất vào kho, còn rơm rạ nhẹ hơn sẽ bay ra ngòai thúng và sẽ bị thu gom thiêu đốt trong lửa (x Gr 15,7). Cũng vậy, trong ngày thẩm phán, kẻ lành sẽ được hưởng hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa, còn kẻ ác làm tay sai cho ma quỷ sẽ bị phạt trong lửa không hề tắt là hỏa ngục muôn đời (x. Is 66,24; Mc 9,43.48).

  1. CÂU HỎI: 1) Tại sao người thu thuế và binh lính lại bị dân chúng khinh khi thù ghét? 2) Dân Do thái thời Đức Giê-su trông mong Đấng Mê-si-a đến để làm gì? 3) Gio-an đã khuyên đám đông dân chúng, những người thu thuế và binh lính phải sám hối cụ thể thế nào để chuẩn bị đón Đấng Mê-si-a sắp đến? 4) Gio-an cho biết sứ mệnh của Đấng Mê-si-a ra sao?

II SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có. Ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3,11).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) ÔNG GIÀ NOEL CÓ THẬT KHÔNG ?

Tháng 9 năm 1987, một bé gái tên là Virginia đã viết cho một tờ báo Công giáo Hoa Kỳ để hỏi về ông già Noel như sau: Ông già Noel có thật không?

Vài ngày sau, trên mục quan điểm của tờ báo, người ta đọc được câu trả lời của ông chủ nhiệm kiêm chủ bút như sau: “Virginia yêu dấu của bác. Điều trước tiên bác muốn nói với cháu là: các bạn của cháu thật là sai lầm khi bảo rằng không có ông già Noel. Các bạn của cháu đã bị tiêm nhiễm bởi trào lưu hoài nghi. Họ nghĩ rằng chỉ có thể tin được những gì họ thấy tận mắt. Họ nghĩ rằng không gì có thể có được nếu trí khôn nhỏ bé của họ không hiểu được.

Virginia ạ! Ông già Noel có thực. Ông có thực cũng như tình yêu và lòng quảng đại, nhờ đó cuộc sống của cháu sẽ trở thành vui tươi và xinh đẹp. Bé ơi, nếu không có ông già Noel thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào?…”.

Được biết ông già Noel là một nhân vật lịch sử có thật. Người Anh gọi ngài là Thánh Nicola (Santa Claus). Thánh Giám mục Nicola nầy được mừng lễ ngày 6/12 mỗi năm trước lễ Giáng Sinh. Còn người Pháp lại gọi ngài cách thân mật là Cha Noel, vì ngài có liên hệ nhiều với lễ Noel, nhất là với trẻ em. Các em được kể rằng nếu chúng ngoan, ông già Noel sẽ đến thăm chui vào nhà qua lò sưởi, vào phòng ngủ của chúng, bỏ bánh kẹo vào những chiếc giày của chúng để bên lò sưởi hay bỏ vào những chiếc vớ các em treo ở chân giường…

Ông già Noel sẽ tiếp tục công việc làm cho tâm hồn trẻ thơ được tràn đầy hoan lạc trong Mùa Giáng Sinh. Lời Chúa Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay cũng mời gọi chúng ta “Hãy vui lên”. Không phải vui vì quà tặng, vì những thiệp chúc mừng, vì ánh đèn ngôi sao lấp lánh, vì những máng cỏ với Chúa Hài đồng xinh xinh… Những niềm vui vẻ bên ngoài ấy sẽ qua mau sau ngày lễ, còn niềm vui đích thực trong tâm hồn chúng ta sẽ còn mãi, ngay cả những lúc ta cảm thấy lo âu chán chường hay những khi gặp thất bại rủi ro. Niềm vui Giáng Sinh sẽ bén rễ sâu trong lòng chúng ta nhờ trung thành đọc Lời Chúa và cầu nguyện với Lời Chúa trong giờ kinh tối mỗi ngày.

2) HÃY LUÔN NGHĨ ĐẾN NHỮNG NGƯỜI BẤT HẠNH:

Một hôm có một thương gia vào một quán ăn bên đường để dùng bữa trưa. Khi ngồi xuống chiếc bàn còn trống thì phát hiện một bé gái độ 12 tuổi, áo quần cũ rách đang đứng ngoài cửa sổ nhìn vào bàn ăn và ngửa tay ra xin bố thí. Thấy mặt cô bé tái xanh và tay chân run rẩy vì đói, ông thương gia động lòng thương. Ông tiến lại gần bên cầm lấy tay cô bé, rồi mời cô cùng vào ngồi ăn chung bàn với mình. Nhưng thật bất ngờ: cô bé cương quyết từ chối. Gặng hỏi mãi em mới nói lí nhí như sau: “Thưa ông, cháu cám ơn ông đã tôn trọng cho cháu được ngồi ăn chung bàn với ông. Nhưng làm sao cháu có thể ăn được đang khi thằng em của cháu cũng đang đói và đang đứng kia!” Nhìn theo tay em chỉ, ông thương gia thấy một bé trai thân hình gầy gò ốm yếu, quần áo lôi thôi nhơ bẩn, đang đứng bên cửa sổ đối diện và cặp mắt đang nhìn cách thèm thuồng vào bàn đầy thức ăn ngon lành trong quán. Chung quanh bàn ăn là năm thanh niên nam nữ đang ngồi ăn uống thoải mái nói cười vui vẻ, không ai thèm để ý đến cậu bé đói khát đang đứng ngay bên.

Câu nói của cô bé nghèo trong câu chuyện trên : “Làm sao cháu có thể ngồi ăn chung với ông được, đang khi còn thằng em của cháu cũng đang bị đói và đang đứng đàng kia!”, là lời nhắc nhở mỗi tín hữu chúng ta hãy suy nghĩ dưới góc độ Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót và thành tâm sám hối bằng cách quảng đại chia sẻ cụ thể trong những ngày mừng Giáng Sinh sắp tới.

  1. THẢO LUẬN: 1) Hãy cho biết trong hai nhân đức công bình và bác ái thì nhân đức nào quan trọng hơn và phải được ưu tiên thực hiện? 2) Để chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp đến, trong những ngày mùa Vọng này, mỗi người chúng ta sẽ chứng tỏ là ngôn sứ của lòng Chúa Thương Xót như thế nào đối với cha mẹ, thày dạy, anh chị em, bạn bè hay người nghèo khó chung quanh?
  2. SUY NIỆM:

Tin mừng CN III Mùa Vọng hôm nay ghi lại việc Gioan Tẩy Giả loan báo tin vui về Đấng Cứu thế sắp xuất hiện, Đấng mà ông không đáng cởi quai dép cho Người (x. Lc 3, 15-18). Trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót này, noi gương ngôn sứ Gioan, chúng ta sẽ làm gì cụ thể để chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp đến ?

1) SỨ VỤ DỌN ĐƯỜNG CHO ĐẤNG THIÊN SAI CỦA GIO-AN TẨY GIẢ:

Dân chúng nghĩ Gio-an là Đấng Thiên Sai Mê-si-a, nhưng chính ông lại phủ nhận và khẳng định mình không phải Đấng Mê-si-a nhưng chỉ là kẻ đi trước dọn đường cho Người. Ông tiên báo về Người đến sau nhưng lại có trước ông, cao cả hơn ông và ông không đáng hầu hạ Người. Đấng ấy sẽ làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa. Người sẽ xét xử mọi người, giống như người nông dân sàng sảy sân lúa sau mùa gặt: Lúa tốt thì chất vào kho, còn trấu rơm thì thiêu cháy trong lò lửa không hề tắt (x Mt 3,11-12). Khi Đức Giê-su xuất hiện, Gio-an đã làm phép rửa cho Người và nhận biết Người chính là Đấng Thiên Sai. Sau đó ông đã giới thiệu Người cho các đồ đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian… Tôi đã thấy, nên xin chứng nhận rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,29.34). Ông cũng tỏ ra khiêm tốn khi đề cao Đức Giê-su với các môn đệ: “Người cần phải lớn lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).

2) ANH EM HÃY VUI LUÔN TRONG CHÚA VÀ CHIA SẺ NIỀM VUI CHO THA NHÂN (x. Pl 4,4):

Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Gaudete – “Hãy vui lên”. Đạo Công giáo là đạo của niềm vui và thể hiện qua phẩm phục chủ tế mặc trong thánh lễ hôm nay là mầu hồng thay vì mầu tím. Hai ngàn năm trước, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người để công bố cho nhân loại một tin mừng, đó là “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Tin mừng này khởi đầu từ máng cỏ Belem qua lời thiên thần báo tin cho các mục đồng: “Đây ta báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2,10-11). Tin mừng ấy sẽ đạt đến đỉnh điểm khi Đức Giêsu chịu chết trên thập giá và được Thiên Chúa siêu tôn bằng việc cho Người sống lại và đặt Người làm Chúa Tể muôn loài (x.Pl 2,8-11). Niềm vui này phải được chứa đầy trong tâm hồn mỗi người chúng ta và phải được biểu lộ không những bằng các việc đạo đức ở nhà thờ mà chủ yếu qua thái độ ứng xử vui tươi khoan dung và sẵn sàng chia sẻ niềm vui cho mọi người như lời thánh Phanxicô Salêsiô: “Một ông thánh buồn rầu là một ông thánh đáng buồn! ”. Ước chi mỗi người chúng ta cảm nhận được niềm vui thánh thiện của Chúa trong Chúa Nhật hôm nay và làm nhiều việc bác ái cụ thể để chia sẻ niềm vui cho tha nhân trong mùa Giáng Sinh sắp tới.

3) CHÚNG TA SẼ LÀM GÌ ĐỂ DỌN ĐƯỜNG ĐÓN CHÚA ĐẾN HÔM NAY ?:

Trong những ngày Mùa Vọng này Hội Thánh cũng mời gọi chúng ta hãy hồi tâm sám hối. Sám hối không những bằng việc tham dự các buổi tĩnh tâm và dọn mình xưng tôi, mà quan trọng hơn là sự quyết tâm thay đổi đời sống bằng việc lắng nghe Lời Chúa với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Tránh làm theo ý riêng do ma quỷ cám dỗ hoặc theo thói thế gian, nhưng biết noi theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su tóm lại như sau:

“Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”: Áo mặc và của ăn ở đây có thể là một số tiền ủng hộ cho việc “Làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”, là tổ chức quyên góp để thăm viếng chia sẻ cơm bánh cho những người nghèo khó, săn sóc những ai đau liệt, là lắng nghe và đồng cảm, ủi an những người gặp thất bại đau khổ trong cuộc sống. Câu nói của cô bé nghèo trong câu chuyện trên : “Làm sao cháu có thể ngồi ăn chung với ông được, đang khi thằng em của cháu cũng đang bị đói đang đứng đàng kia!”. Đây cũng là lời nhắc nhở mõi chúng ta hãy xét lại mình và thành tâm sám hối bằng cách quan tâm chia sẻ cụ thể, để mang lại niềm vui cho những người bất hạnh bên cạnh chúng ta.

“Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”Đức bác ái cần phải đi đôi với đức công bình bằng những hành động cụ thể như: Không dối trá lường gạt người khác, không làm hàng gian hàng giả, nhưng phải luôn buôn ngay bán thật. Tránh nói thêm nói bớt nhưng luôn trung thực trong quan hệ giao tiếp hằng ngày và trong việc làm ăn kinh tế với tha nhân.

“Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”Cần tránh thái độ “lấy thịt đè người” hoặc “Cả vú lấp miệng em” thể hiện qua thái độ quan liêu hách dịch, hà hiếp bóc lột những người “thân yếu thế cô”. Cũng cần sử dụng chức vụ quyền bính để phục vụ tha nhân thay vì lạm dụng quyền hạn để trục lợi cho mình và phe nhóm cục bộ. Tránh hẹn hết lần này đến lần khác hoặc bắt người xin phải chờ đợi hàng giờ trong khi công việc phục vụ thực sự chỉ cần giải quyết trong giây lát.

  1. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊSU. Xin giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh bằng việc quảng đại chia sẻ cơm áo vật chất, cảm thông với những người đau khổ bất hạnh như lời thánh Gioan hôm nay: “Ai có hai áo, hãy nhường cho người không có. Ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”. Xin cho chúng con luôn ý thức giữ đức công bình khi giao tiếp làm ăn buôn bán, như thánh Gioan đã khuyên những người thu thuế: “Các người đừng đòi gì quá mức đã ấn định”. Cho chúng con biết tôn trọng tha nhân qua cách ứng xử vui vẻ lễ độ, để thực hành lời thánh Gio-an khuyên các binh lính: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai và hãy bằng lòng với số lương của mình”. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ đón nhận được niềm vui trong ngày mừng Chúa Giáng sinh và cho chúng con chu toàn sứ vụ làm chứng nhân của tình thương trong Năm Thánh kính lòng Chúa thương xót này.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *