Bài hát và Suy niệm (25.12.2016 – Chúa Nhật Chúa Giáng Sinh năm A)

Lời Chúa: 

Lễ Đêm: Is 9, 2-4. 6-7; Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

1 Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. 2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. 3 Ai nấy đều về thành của mình mà khai tên tuổi. 4 Bởi thế, ông Giu-se cũng từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành vua Đa-vít gọi là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình và dòng tộc vua Đa-vít. 5 Ông lên đó khai tên cùng với bà Ma-ri-a là người đã thành hôn với ông, lúc ấy bà đang có thai. 6 Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. 7 Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.

8 Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. 9 Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ sợ hãi kinh hoàng. 10 Nhưng sứ thần bảo họ : “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân : 11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa. 12 Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” 13 Bỗng có đạo binh thiên quốc đông đảo hợp với sứ thần cất tiếng ca tụng Thiên Chúa rằng :

14“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”

Lễ Rạng Đông: Is 62, 11-12; Tt 3, 4-7; Lc 2, 15-20

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

15 Khi các thiên sứ rời những người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau : “Nào ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết.” 16 Họ liền hối hả ra đi và gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. 17 Thấy thế, họ kể lại điều họ đã được nghe nói về Hài Nhi này. 18 Tất cả những ai nghe đều ngạc nhiên về những gì các người chăn chiên nói cho biết. 19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. 20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được tai nghe mắt thấy theo như họ đã được loan báo.

Lễ Ban Ngày: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18

Khởi đầu Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.

1Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
2Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
3Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành.
Điều đã được tạo thành 4 ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
5Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.
6Có một người được Thiên Chúa sai đến,
tên là Gio-an.
7Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,
để mọi người nhờ ông mà tin.
8Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
9Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người.
10Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
11Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
12Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
13Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,
cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc do ước muốn của người đàn ông,
nhưng do bởi Thiên Chúa.
14Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.
15Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố :
“Đây là Đấng mà tôi đã nói :
Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.”
16Từ nguồn sung mãn của Người,
tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
17Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có.
18Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả ;
nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.

 

1. Ghi nhớ:

 “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. ” Ga1. 5-9.

2. Suy niệm: 

Chuyện kể rằng: Triết gia Diogene(413-323) có một cuộc sống rất thanh bạch, đơn sơ và khó nghèo. Nhà của ông ở được làm bằng gỗ,  nhỏ bé giống như cái mái vòm. Một buổi sáng nọ Alexander đại đế đến trước cửa vòm nhà triết gia thấy vậy liền nói: “Hỡi Diogene Trẫm sẽ cho khanh một lời cầu xin,  khanh muốn gì thì cứ nói, Trẫm hứa sẽ ngay lập tức thỏa đáng cho khanh. ” Diogene trả lời.  “Điều thần sẽ xin là: Tâu bệ hạ, Người hãy tránh sang một bên để cho ánh sáng có thể chiếu soi vào được nhà của hạ thần. ”

Sống trên trần gian này, cái bất hạnh lớn nhất mà con người phải chịu là: sống trong cảnh tối tăm! Thật vậy, ca dao Việt Nam có câu “Có đau mắt mới thương kẻ mù”,  Nhưng có đôi mắt sáng mà lại phải sống trong tăm tối thì quả thật có khác chi là bị mù lòa

Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Gioan giới thiệu cho chúng ta Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến trong thế gian. Ngài được ví như Ánh Sáng. Chính tiên tri Isaia cũng đã báo trước cho dân Do thái rằng: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết.” (Is 9, 2).

Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài được ví như Mặt trời Công Chính. Vì Người đến để xóa đi đêm tối lạnh lẽo, và soi rọi Ánh Sáng vào mọi tâm hồn u mê tăm tối. Người soi chiếu Ánh Sáng chân lý, yêu thương vào lòng nhân loại.

Trên thế gian này Ánh Sáng  là chủ thể của sự sống. Nếu không có Ánh Sáng, loài người và muôn vật sẽ chết dần trong lạnh lẽo và tối tăm! Đó là nói về sự sống tự nhiên. Bước sang lãnh vực siêu nhiên. Nếu không có Chúa soi sáng hướng dẫn thì chúng ta cũng sẽ chết vì “lạnh giá và tối tăm”mà thôi. . . Nhưng để đón nhận được Ánh Sáng ban sự sống đời đời của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì chúng ta cần phải từ bỏ, loại trừ tối tăm là những mê đắm của cải thế gian, những thỏa mãn xác thịt bất chính, những gian ác ích kỷ. kiêu căng…có như vậy thì  ánh sáng của Chúa Hài Đồng mới đến được trong tâm hồn chúng ta. Và như thế thì đời sống của chúng ta nơi trần gian này sẽ thật sự trở nên hạnh phúc vì luôn được sống trong ánh sáng mang lại sự sống của Người.

                                        Chúa bỏ trời cao, xuống thế gian.

                                        Bởi thương nhân loại sống lầm than,

                                        Người như Ngọn Lửa, xua băng giá.

                                        Chúa tựa Vầng Hồng, xóa đêm đen.

                                        Người phủ tình yêu trên mặt đất.

                                        Chúa ban ân sủng khắp gian trần,

                                        Ngàn dân ơi. Hãy đến tôn thờ.

                                        Đấng Cứu Độ. Vua sự bình an.

3. Cầu nguyện:

Lạy Chúa Hài Nhi, Người đã đến mang Ánh Sáng cho thế gian. Xin mở mắt tâm hồn để chúng con đón nhận được sự sáng của Chúa soi rọi tâm hồn mình. Cho chúng con biết sống xứng đáng với bổn phận làm người con được Chúa xuống thế cứu chuộc. Và lạy Chúa,  trong những ngày này, đón mừng lễ Giáng sinh, đón mừng Năm Mới, chúng con thương yêu chúc  những điều tốt lành. Nhưng những lời lẽ đó sẽ không có giá trị gì, bởi chúng con chẳng làm gì được! Cúi xin Chúa thương thực hiện những điều mà chúng con chân thành nguyện chúc cho nhau. Chúng con cùng cầu xin Chúa. Amen.

4. Sống lời Chúa:

Con xin kính chúc Quý Cha, Quý Thầy và tất cả anh chị em trong đại Gia Đình thánh Phụ Đaminh, được hưởng một mùa Noel tràn đầy niềm vui, ân sủng; một Năm Mới hạnh phúc và bình an trong Chúa Hài Đồng Giê-su.

Đaminh Trần Văn Chính

***

MỤC LỤC

1. Gia đình

2. Con người – Lc 2,1-20

3. Không nhà không cửa

4. Giáng Sinh: Mầu Nhiệm Của Lòng Thương Xót

5. Bệnh Giêsu

6. Bài giảng Lễ Giáng Sinh của ĐTC. Gioan Phaolô II

7. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh – Lc 2,1-14

8. Bài giảng của ĐTC Phanxicô

9. Noel! Ngày lễ Hòa Bình – Thiên Phúc

10. Ánh sáng rạng ngời – Ga 1,1-14

11. Ôn cố tri tân – Lm JP. Vũ Minh

12. Ánh Sáng đã đến thế gian – Anmai

13. Ba quả táo – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

***

1. Gia đình

Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại. Tin mừng ấy là Đấng Cứu Thế đã ra đời. Nhưng dấu chỉ để nhận diện Người lại thật là khiêm tốn: một trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm nơi máng cỏ. Vậy ai đã bọc tã cho trẻ nhỏ ấy nếu không phải là Mẹ Maria diu hiền bên cạnh Thánh Giuse cần mẫn.

Hoá ra tin mừng trọng đại này lại là tin mừng về một gia đình. Gia đình ấy nghèo đến độ chẳng có một mái nhà lúc sinh con. Cũng vì nghèo mà họ chẳng tìm được chỗ trong quán trọ. Họ chẳng cần có một mái nhà, nhưng lại có mái ấm tình thương. Một gia đình đúng nghĩa, chẳng bù cho những gia đình nhà cao cửa rộng, nhưng có mà như không có, khiến trẻ thơ mất hẳn mái ấm tinh thần.

Gia đình ấy phải sinh con giữa cảnh đồng không mông quạnh, nhưng phải chăng chính ở đó mà vẻ đẹp của gia đình được biểu lộ. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với cõi trời mênh mông, làm rung lên cả tiếng hát thiên thần: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với mọi người kể cả những kẻ nghèo hèn nhất là các mục đồng. Thật khác xa với đôi tình nhân hôm nào trong vườn địa đàng, khép kín với Thiên Chúa đến độ phải ẩn mình, khép kín với nhau vì những lời phiền hà trách móc và làm cho cả đất đai cũng trở nên gai góc. Vâng, gia đình ấy đã trở thành một tin mừng trọng đại, tất cả cũng chỉ vì Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa họ.

Trong một vở kịch mang tựa đề là “Quỷ ở với người”, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã phác hoạ khuôn mặt một gia đình đang phá sản. Khi mà mối quan hệ gia đình được xây dựng trên đồng tiền, trên tình dục và quyền lực, chứ không phải trên đạo đức. Khuôn mặt gia đình ấy cũng có thể là dự báo về tình trạng nhiều gia đình đang và sẽ xuất hiện trong thời buổi hiện nay.

Nếu nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đặt tên cho gia đình đang phá sản ấy là Quỷ ở với người, thì tôi nghĩ, giải pháp để cứu vãn gia đình chính là Chúa ở với người. Giải pháp ấy khởi đi từ tin mừng về đôi vợ chồng trẻ, sinh con giữa cánh đồng Bêlem ngày xưa. Chúa ở với Người là để Đấng cứu độ đến với mỗi thành viên trong gia đình, mang lấy tâm tư và mặc lấy con người mới theo tinh thần của Người. Chúa ở với người là để cho Người hướng dẫn và chi phối cuộc sống gia đình của chúng ta. Chúa ở với người là để cho mầu nhiệm giáng sinh được trở nên hiện thực trong chính cuộc sống của cá nhân và gia đình. Có Chúa hiện diện trong gia đình và cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, thì bản thân chúng ta mới được bình an, và gia đình chúng ta mới trở thành một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc. [Mục Lục]

2. Con người – Lc 2,1-20

Ngày nay, con người là một vấn đề được chú ý nhiều nhất. Càng ngày những công trình bác ái càng được phát huy sâu rộng. Càng ngày người ta càng cảm thấy sự tôn trọng và thăng tiến con người là một yếu tố cần thiết làm nên văn minh, cũng như làm cho dân giàu nước mạnh. Lý tưởng mà con người mơ ước và theo đuổi mỗi ngày một cao đẹp và phong phú hơn. Từ đó, chúng ta đi vào mầu nhiệm giáng sinh.

Thực vậy, với mầu nhiệm giáng sinh, thì yếu tố con người cũng là yếu tố hàng đầu. Bởi vì cái giá mà Thiên Chúa đã trả để giải quyết vấn đề con người chứng tỏ con người thực là quan trọng. Đúng thế, trong kinh Tin Kính chúng ta vốn hằng tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế.

Theo thánh Gioan diễn tả, thì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể. Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận con người, hoà mình vào những thực tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống con người, Ngài đã trở nên giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.

Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn đấu đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp, xứng với phẩm giá con người.

Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.

Mỗi khi chúng ta giúp đỡ người khác, nhất là những người ngheo túng và khổ đau, thì đó là chúng ta đã cộng tác với Chúa, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, thì đó là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy.

Cái nhìn lạc quan trên đây giúp chúng ta phấn khởi để cùng nhau tích cực góp phần giải quyết vấn đề con người hôm nay, nhất là những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Nếu chúng ta biết rằng vấn đề con người là quan trọng đến nỗi chính Thiên Chúa đã phải dấn thân, đã phải nhập cuộc để giải quyết, thì bất cứ ai thiện chí góp phần vào đều đáng được kể là cộng tác với Thiên Chúa, dù người đó không cùng một quan điểm, không cùng một niềm tin với chúng ta. [Mục Lục]

3. Không nhà không cửa

Một hài nhi không nhà không cửa.

Hẳn rằng chúng ta còn nhớ, có lần Chúa Giêsu đã phán: Con cáo có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Lời nói này đã trở thành một sự thật ngay từ đêm hôm nay, khi Ngài mở mắt chào đời.

Thực vậy, Ngài đã sinh ra trong một hang đá ngoài đồng vắng, nơi nghỉ ngơi của chiên bò. Mẹ Ngài đã đặt Ngài nằm trong một chiếc máng có. Thế nhưng đó lại là một sự kiện kỳ diệu, làm chuyển biến cả số phận của nhân loại.

Theo lệnh của hoàng đế César, những người trở về Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu, đều tìm thấy một mái nhà để nghỉ qua đêm, hoặc là nơi hàng quán, hoặc là nơi bà con thân thích. Dường như chỉ có mình Ngài, một hài nhi không nhà không cửa, không cả chốn tựa đầu.

Theo lề thói thông thường, chúng ta có thể mường tượng Ngài sinh ra trong một toà lâu đài hay trong một cung điện kín cổng cao tường. Nhưng Ngài đã không làm thế, bởi vì Ngài là người của mọi người, Ngài đến để cứu chuộc cả nhân loại. Hang đá Bêlem không có cửa, và nếu có thì cánh cửa ấy vẫn luôn mở rộng, để tất cả chúng ta đến tìm gặp Ngài, mà không cần báo trước, không cần chờ đợi, không cần những thủ tục kính chuyển.

Hơn thế nữa, Ngài đã không sinh ra dưới một mái nhà kiên cố, điều ấy như muốn chứng tỏ rằng vương quốc của Ngài không thuộc trần gian này, cho nên Ngài không cần tới một tấc đất để làm sản nghiệp. Ngài không tranh giành ảnh hưởng, Ngài không gây chiến để mở mang bờ cõi. Nhưng Ngài đã để lại và trao ban cho chúng ta tất cả, cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để chứng tỏ một tình yêu thương dạt đào: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.

Hài nhi nơi máng cỏ Bêlem, phải chăng là một hình ảnh, một biểu tượng của vị vua hoà bình. Ngài chỉ muốn giải thoát chúng ta khỏi mọi ách nô lệ, nhất là ách nô lệ của tội lỗi. Ngài chỉ ước mong cho chúng ta được nếm thử niềm vui, niềm vui của một tâm hồn trong sạch, hầu chuẩn bị cho hạnh phúc Nước Trời. Ngài không cần chúng ta dành cho Ngài một mái nhà, nhưng chính Ngài sẽ dành cho chúng ta một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trong nhà Cha trên trời.

Là một vị Vua không binh đội, không cung điện, không ngai vàng. Là một vị Vua của mọi tâm hồn, vì thế có lẽ điều Ngài mong đợi hơn cả nơi mỗi người chúng ta, đó là hãy dành cho Ngài một nơi cư ngụ trong chính thẳm sâu cõi lòng chúng ta. Tâm hồn chúng ta phải là một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa và tình yêu của chúng ta sẽ là những tia nắng sưởi ấm cho Chúa. Thế nhưng chúng ta đã ý thức và thực hiện được điều đó hay chưa? [Mục Lục]

4. Giáng Sinh: Mầu Nhiệm Của Lòng Thương Xót

(Lễ Giáng sinh 2015 (Lễ ban ngày) – ĐGM. Giuse Nguyễn Năng)

Trung tâm điểm và đồng thời cũng là cao điểm của bài Tin Mừng hôm nay là lời khẳng định của thánh Gioan: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Con Thiên Chúa đã trở nên con người và đi vào lịch sử loài người. Con Thiên Chúa nhập thể để làm gì?

Thánh Gioan nói trong lời mở đầu của Tin Mừng: Ngôi Lời đến để chiếu sáng thế gian, để tỏ cho thế gian biết Chúa Cha; nhưng đây là thế gian chìm ngập trong bóng tối. Tác giả thư Do Thái (Bài đọc 2) cho thấy Con Thiên Chúa đến trần gian để mạc khải Chúa Cha cho chúng ta, và còn hơn nữa, để chịu chết và đền tội cho chúng ta. Con Thiên Chúa đến trần gian để tẩy trừ tội lỗi, và “sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Con Thiên Chúa lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời”.

“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Ngôi Lời làm người để cứu độ nhân loại. Ơn cứu độ trước hết hệ tại ở ơn tha tội. Thiên Chúa tha thứ cho tội lỗi của nhân loại. Chúa Giêsu đã thực sự sống cuộc đời của con người, trải qua những kinh nghiệm của đời người, chỉ trừ tội lỗi, để đền tội cho chúng ta.

Ơn cứu độ không phải là một trò ảo thuật. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối tội lỗi cần được Ánh sáng chiếu soi. Nhưng Thiên Chúa không đọc câu thần chú để làm tiêu tan bóng tối. Để chiếu sáng thế gian, Ánh sáng đã đi vào thế gian tăm tối, chứ không chiếu sáng từ bên ngoài. Nhân loại chìm ngập trong tội lỗi cần được tha thứ. Nhưng Thiên Chúa không cứ ở mãi trên trời cao tuyên bố lời tha bổng tội lỗi cho con người. Không, tội lỗi quá nặng nề, nên ơn tha tội không quá rẻ như thế. Thiên Chúa không ở trên toà cao, trái lại, đã cho Con Một mình đi vào đời, làm người để đền tội cho chúng ta.

Có tội thì phải đền tội. Đó là lẽ công bằng, là đòi hỏi của công lý. Nếu không đền tội, thì còn đâu công lý? Nhưng ngược lại, nếu Thiên Chúa cứ đòi hỏi theo luật công bằng thì còn đâu tình yêu thương? Hơn nữa, loài người đâu có gì để đền bù cho cân xứng với sự xúc phạm đến Thiên Chúa.

Trong mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã làm một tổng hợp tuyệt vời, vừa thực thi công lý vừa biểu lộ lòng thương xót. Đúng hơn, công lý của Thiên Chúa lại cũng chính là lòng thương xót, bắt nguồn từ lòng thương xót. Do lòng thương xót, Thiên Chúa ban cho chúng ta có cái gì đó để đền bù tội lỗi cho cân xứng. “Cái gì đó” là chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.

Người ta kể về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau. Một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một ổ bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “Gia đình tôi đang chết đói”.

Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biện bạch của ông lão, ông thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: “Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải nộp 10 đôla”. Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong túi của mình ra 10 đôla và trao cho người đàn ông khốn khổ.

Đó là phần đầu của câu chuyện. Cùng một lúc, ông thị trưởng vừa thi hành công lý vừa tỏ lòng thương xót đối với kẻ ăn trộm, thi hành công lý bằng cách thương xót.

Thiên Chúa là vị Quan toà tối cao đòi loài người phải đền tội vì đã phạm tội, xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa. Đó là công lý. Nhưng Thiên Chúa lại thi hành công lý bằng cách thực thi lòng thương xót. Vì quá yêu thương thế gian, Thiên Chúa đã ban tặng Con Một cho thế gian, để người Con ấy đền tội thay cho chúng ta. Con Một của Thiên Chúa đã làm người để đền bù tội lỗi thay cho toàn thể nhân loại. Thiên Chúa đi bước trước và biểu lộ lòng thương xót để chúng ta có khả năng thi hành công lý đối với Thiên Chúa.

Công lý là những gì chúng ta nhận được do việc chúng ta làm. Còn lòng thương xót là những gì chúng ta nhận được do việc Thiên Chúa làm. Lòng thương xót của Thiên Chúa bao trùm và vượt trên cả những đòi hỏi của công lý.

Mầu nhiệm Giáng sinh là mầu nhiệm của lòng thương xót. “Thiên Chúa ta đầy lòng thương xót, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta” (Lc 1, 78). Khi mừng mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã ban cho chúng ta người Con Một để người Con ấy đền tội nhân danh toàn thể nhân loại. Mầu nhiệm Giáng sinh là quà tặng của lòng thương xót. Lòng thương xót được biểu lộ hôm nay qua mầu nhiệm Giáng sinh, và sẽ đạt tột đỉnh qua việc Thiên Chúa hy sinh trọn vẹn Con Một mình trong mầu nhiệm Thập giá.

Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Mầu nhiệm Nhập thể chiếu toả ánh sáng vào thân phận con người để chúng ta nhận ra rằng những anh chị em nghèo hèn đói khổ đang sống bên cạnh chúng ta là chính Chúa. Chúng ta đã được Thiên Chúa thương xót, vì thế hãy thương xót lẫn nhau.

Trở lại với câu chuyện ăn cắp ổ bánh mì.

Sau khi trao cho người ăn cắp 10 đôla để nộp phạt, ông thị trưởng quay xuống cử tọa nói tiếp: “Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp”. Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền và trao tất cả cho ông lão. Khi chiếc mũ đã được chuyền một vòng, người ta đếm được 47 đôla 50 xu. Ông thị trưởng trao tất cả cho ông lão. (Trích từ “Lẽ Sống”).

Có bao giờ chúng ta nhận thấy mình cũng có trách nhiệm về những tội ác xảy ra hằng ngày chung quanh chúng ta không? Biết đâu vì chúng ta dửng dưng vô cảm, thiếu liên đới chia sẻ, nên mới xảy ra biết bao tội ác trong xã hội! Không nhiều thì ít, một cách nào đó, trực tiếp hoặc gián tiếp.

Nếu chúng ta ý thức về trách nhiệm liên đới, chia sẻ, thực sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, chúng ta sẽ góp phần giảm bớt cảnh đói khổ, và như thế tội ác trên thế giới cũng sẽ giảm đi. Thế giới không thiếu thực phẩm, không thiếu tài nguyên. Chỉ tại thiếu lòng thương xót.

Chúng ta thực sự có lỗi, có tội, có trách nhiệm, và là lỗi nặng, trách nhiệm nặng, khi không quan tâm đến cảnh đói khổ của tha nhân. Dụ ngôn về ngày phán xét chung (x. Mt 25, 31-46) cho ta hiểu rằng sự dửng dưng vô cảm trước những nỗi đói khổ của người khác là một lỗi nặng đưa chúng ta đến lửa đời đời. Mầu nhiệm Nhập thể nhắc chúng ta nhớ rằng mỗi người sẽ bị xét xử tuỳ theo thái độ của mình đối với người anh chị em nghèo hèn đói khổ, không phải chỉ vì họ là hình ảnh của Chúa, mà hơn nữa, vì khi chúng ta giúp đỡ họ là chúng ta giúp đỡ Chúa, và ngược lại, khi sống vô cảm mà gạt bỏ họ là chúng ta gạt gạt bỏ chính Chúa.

Có bao giờ chúng ta tự hỏi: nếu thế giới này không có Chúa Giêsu thì sẽ ra sao? Nếu Thiên Chúa không thương xót nhân loại mà ban tặng Con Một, nhân loại có còn tồn tại đến hôm nay không? Thư Do Thái (Bài đọc 2) trả lời: “Thiên Chúa đã nhờ Con Một mà dựng nên vũ trụ”; hơn nữa, vạn vật được duy trì và tồn tại là nhờ Chúa Giêsu. Còn trong Tin Mừng, thánh Gioan khẳng định: “Từ nguồn sung mãn của (Ngôi Lời làm người), tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”.

Mầu nhiệm Giáng sinh củng cố niềm hy vọng của thế giới. Nhân loại còn sống và tồn tại được là vì có Chúa Giêsu, cuộc đời chúng ta tràn đầy niềm vui và hy vọng là nhờ tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Tương lai của nhân loại tuỳ thuộc thái độ của con người sống lòng thương xót như thế nào, tuỳ thuộc con người có biết đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa và biết thương xót lẫn nhau không. Thế giới này là “nhà” của Chúa Giêsu, nhưng khi “Ngài đến nhà mình, thì người nhà đã không đón nhận”. Qua mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta hiểu rằng nhân loại không thể hưởng bình an và hạnh phúc nếu không có Chúa Giêsu, thế giới này sẽ không có tương lai khi gạt bỏ Chúa Giêsu là hiện thân của lòng thương xót.

Lễ Giáng sinh là khởi đầu cho tương lai tươi sáng của nhân loại. Hãy xây dựng đời mình trên nền tảng chân lý và ân sủng là chính Chúa Giêsu. [Mục Lục]

5. Bệnh Giêsu

Cách đây hơn 20 thế kỷ, một biến cố đã xảy ra và đã làm cho cuộc sống của nhân loại được phong phú. Đúng thế. Vào một đêm đông, một hài nhi nhỏ bé đã được sinh ra trong tăm tối. Nhưng rồi ba mươi năm sau, người ta lại thấy Ngài xuất hiện đi trên các nẻo đường như một ánh lửa khác thường của nhân loại. Ngài đã mời gọi thay đổi cả thế giới. Ngài đã lật đổ mọi thứ nặng nề trì trệ của cơ chế cũng như của tôn giáo.

Đối với Ngài, không có những bức hàng rào ngăn cách những gia đình, dòng tộc, phe nhóm và quốc gia. Ngài khơi dậy nơi mọi người sự ân cần của tình thương. Ngài đã nói năng thân mật với Thiên Chúa cao cả như một người con. Nơi nào Ngài đến, thì hệ thống đẳng cấp bị sụp đổ. Người nghèo được vui mừng. Người bệnh tật và bất hạnh thấy được bảo đảm. Người cuối hết trở thành kẻ thứ nhất. Ngài đã tái sinh ông nhà giàu dính cứng trong tiền bạc bất chính, người đàn bà hư hỏng, nhà thông luật nặng hình thức và thậm chí cả viên sĩ quan của nhà vua. Một sự sống chưa từng có đã bừng lên nơi những con người này, để nhờ đó, biến đổi cả cuộc sống xã hội và xây dựng một thế giới mới đầy tình thương.

Và như chúng ta đã biết: Ngọn lửa nhân bản và yêu thương ấy đã chỉ có một thời. Những kẻ quyền hành của thế giới cũ đã liên minh chống lại Ngài. Hài nhi sinh ra trong hang đá Bêlem năm nào đã bị đóng đinh trên thập giá. Ngài đã chết sau ba giờ hấp hối, vì đã muốn biến đổi thế giới, vì đã muốn khai sinh một nhân loại mới. Dọc theo các thế kỷ, từ đó cho đến nay, nhiều người đã quên mất Ngài, thậm chí trong số đó có cả những người mang danh hiệu Kitô hữu.

Thế nhưng, tinh thần của Đức Kitô không ngừng lây lan trong tâm hồn chúng ta, hay như một người Hồi giáo đã nói: Con người mang một cái bệnh gọi là bệnh Giêsu, thì không bao giờ có thể lành được. Ngày nay cũng vậy, Ngài có những người bạn nhiệt tình của mình. Tôi nghĩ đến những người trong đêm giáng sinh thay vì đi dự một tiệc rượu, đã tới thăm viếng những người đau yếu, nghèo túng và chia sẻ với họ một phần quà nho nhỏ. Tôi nghĩ đến những ông bác sĩ sau khi tốt nghiệp, thay vì mở phòng mạch tại thành phố, thì đã đi phục vụ không công tại những nơi xa xôi heo lánh. Tôi nghĩ đến những người dâng hiến cả cuộc đời cho những kẻ phong cùi cay cực. Thay vì lãng quên hay chạy trốn, họ đã tiến lại gần và tự hiến. Họ đã là những phản ánh trong sáng nhất cho tình thương của Ngài.

Thế nhưng tới đây thì một câu hỏi được đặt ra: Vậy thì Thiên Chúa ở đâu cho chúng ta tìm kiếm, hay Ngài chỉ còn là một kỷ niệm xa xưa? Cựu Ước kể lại rằng, đang khi Đavit dự tính xây cất một đền thờ cho Thiên Chúa, thì Ngài đã viếng thăm tiên tri Nathan và nói với ông: Ta chẳng bao giờ ở trong nhà kể từ ngày Ta đem con cái Israel ra khỏi Ai Cập. Chính ta sẽ xây cho Đavit một ngôi nhà. Nhà của Đavit và vương quốc của Đavit hằng tồn tại trước mặt Ta.

Như thế chúng ta thấy Thiên Chúa không phải chỉ ở trong các đền thờ mà còn ở trong chính con người. Hay như thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Vậy thì Ngài đã thực sự hiện diện nơi bản thân chúng ta hay chưa, và hơn thế nữa chúng ta đã thực sự tìm gặp được Ngài nơi những người chung quanh, nhất là nơi những người anh em bệnh tật, đau khổ và nghèo túng hay chưa? [Mục Lục]

6. Bài giảng Lễ Giáng Sinh của ĐTC. Gioan Phaolô II

HÔM NAY ĐẤNG CỨU THẾ

ĐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA

Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Lời loan báo Chúa Giáng Sinh vang lên đêm nay, lời loan báo xa xưa và luôn mới mẻ. Lời loan báo vang lên cho những ai đang tỉnh thức, cho những mục đồng tại Bêlem cách đây 2,000 năm, nó vang lên cho những ai đang sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng, và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng đón nhận sứ điệp vui mừng được hát lên trong Thánh Lễ hôm nay: “Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta”.

Dân Kitô đang tỉnh thức, toàn thể thế giới đang tỉnh thức trong đêm Giáng Sinh này. Trong những ngày này, dường như Giáo Hội không bao giờ ngừng lặp lại rằng:”Hôm nay Đấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta”. Lời rao giảng này có tích chứa sức mạnh không bao giờ cạn để canh tân, nó vang dội trong Đêm Thánh này một cách mạnh mẽ đặc biệt. Đây là Giáng Sinh của đại năm thánh, kỷ niệm sống động của hai ngàn năm của Chúa Kitô, kỷ niệm cuộc sinh hạ kỳ diệu, một biến cố đã ghi dấu điểm khởi đầu mới của lịch sử. “Ngày hôm nay Ngôi Lời đã làm người và sống giữa chúng ta”.

Ngày hôm nay trong đêm cực thánh này, thời gian được mở ra đến cõi đời đời, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Kitô, Ngài đã từ trời cao mà sinh xuống giữa chúng con. Ngài sinh xuống trần gian từ cung lòng của một người nữ đã được chúc phúc hơn mọi người nữ. Ngài là con của Đấng Tối Cao, sự thánh thiện của Ngài đã thánh hóa thời gian của chúng con một lần vĩnh viễn luôn mãi, những ngày tháng, những thế kỷ, những ngàn năm. Với sự Giáng Sinh của Ngài, Ngài đã làm cho thời gian trở thành cái hôm nay của ơn cứu rỗi.

Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Đêm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm Bêlem, mầu nhiệm của một đêm đặc biệt cách nào đó nằm trong thời gian vừa đồng thời vượt qua thời gian, trong cung lòng của Đức Nữ Đồng Trinh một Con Trẻ đã sinh ra, một máng cỏ đã trở thành cái nôi cho Đấng là sự sống đời đời.

Lễ Giáng Sinh là lễ của sự sống, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Giêsu, khi đến trong thế gian như một người trong chúng con, Ngài đã chúc phúc cho giờ Ngài đã sinh ra, một giờ nói lên cách tượng trưng cho mầu nhiệm của cuộc sống con người, vừa liên kết những đau khổ của sự sinh hạ với niềm hy vọng, liên kết đau khổ với niềm vui. Tất cả những điều này đã xảy ra tại Bêlem, một người mẹ đã sinh con, một con người đã sinh ra trong trần gian, đó là con người, đó là mầu nhiệm của Bêlem.

Với niềm cảm xúc trong tâm hồn, tôi nghĩ lại những ngày hành hương năm Thánh của tôi bên Thánh Địa, tâm trí tôi trở lại với hang đá nơi tôi được dịp dừng lại cầu nguyện. Tôi hôn kính trong tinh thần, hôn kính miền đất được chúc phúc kia nơi phát sinh niềm vui không bao giờ tàn cho thế giới. Tôi lo âu cho những nơi Thánh và đặc biệt là thành Bêlem nơi mà buồn thay vì hoàn cảnh chính trị khó khăn không thể nào diễn ra Lễ Nghi Giáng Sinh với sự long trọng như mọi khi. Tôi mong muốn sao cho trong đêm nay, những cộng đoàn Kitô tại đó cảm thấy được tình liên đới tràn đầy của toàn thể Giáo Hội đối với họ.

Thưa anh chị em rất thân mến tại Bêlem,

Chúng tôi gần gũi với anh chị em với lời cầu nguyện thật sốt sắng. Cùng với anh chị em, chúng tôi rung động vì số phận của toàn vùng Trung Đông.

Nguyện xin Thiên Chúa lắng nghe lời chúng ta khẩn cầu. Ước chi từ quảng trường này, trung tâm của thế giới Công Giáo được vang lên một lần nữa với sức mạnh được canh tân, vang lên lời loan báo của các thiên thần, của các mục đồng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao và hòa bình dưới thế cho mọi người được Chúa yêu thương”.

Niềm hy vọng của chúng ta không thể nào bị lung lay, cũng như không thể nào thiếu đi sự khâm phục những gì chúng ta đang cử hành. Ngày hôm nay, Đấng ban hòa bình cho thế gian Giáng Sinh. Hôm nay Đấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, Ngài được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa Cứu Rỗi, bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi.

Không phải trong một lâu đài mà Đấng Cứu Chuộc sinh ra, Đấng có sứ mạng thiết lập lại Vương Quốc đời đời và phổ quát. Ngài sinh ra trong một chuồng loài vật và sống giữa chúng ta, Ngài thắp lên trong thế giới ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa và ngọn lửa này sẽ không bao giờ tắt. Ước chi ngọn lửa này cháy lên trong các tâm hồn như một ngọn lửa tình bác ái hữu hiệu, tình bác ái trở thành sự tiếp đón, nâng đỡ cho biết bao anh chị em bị thử thách bởi sự nghèo cùng và đau khổ.

Lạy Chúa Giêsu mà chúng con chiêm ngắm trong cảnh nghèo hèn tại Bêlem, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu Chúa, của tình yêu đã thôi thúc Ngài cởi bỏ vinh quang của Thiên Chúa để sinh ra sống giữa con người và chịu chết vì chúng con, xin Ngài hãy đổ vào chúng con Thánh Thần của Ngài, ngõ hầu ân sủng của mầu nhiệm Nhập Thể khơi dậy nơi mỗi tín hữu sự dấn thân góp sức cách quảng đại hơn, phù hợp hơn với sự sống mới do Bí Tích Rửa Tội trao ban. Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm hôm nay sáng hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên con đường hòa bình.

Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng của Ngài với lời nguyện:

Lạy Chúa, Hoàng Tử của Hòa Bình, Đấng Cứu Chuộc đã Giáng Sinh vì chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo Hội Chúa trên con đường đang mở ra dẫn đưa Giáo Hội bước vào ngàn năm mới. [Mục Lục]

7. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh – Lc 2,1-14

(Trích trong “Suy Niệm Lời Chúa” của Radio Veritas Asia)

Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thật thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào cho âm nhạc cho bằng lễ Giáng sinh, và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về lễ Giáng sinh. Kỳ thực, lễ Giáng sinh cũng chính là một bản nhạc bất hủ Thiên Chúa dành cho con người. Nếu như âm nhạc là một sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người cũng chính là một thứ âm nhạc.

Thánh Gioan tông đồ, người đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, người đã sống mầu nhiệm ấy, đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau: “Và Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể”. “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể” nghĩa là đã hóa thành một người trong chúng ta. Ngài đã sống giữa chúng ta. Ngài đã nói thứ ngôn ngữ vào thời đại của Ngài. Những lời của Ngài đã được ghi chép lại và quảng bá khắp cùng thế giới từ 2,000 năm qua. Lời ấy đã được dịch ra trên 5 ngàn thứ ngôn ngữ và thổ ngữ khác nhau trên khắp thế giới. Và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và lương thực cho tất cả nhân loại.

Thế nhưng trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc, thì Chúa Giêsu đã sống trong thinh lặng. Thinh lặng của hang đá Bêlem và nhất là thinh lặng trong suốt ba mươi năm tại Nagiarét. Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế? Thưa, bởi vì Ngài không những nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn nói với chúng ta bằng sự thinh lặng nữa. Ngài nói với chúng ta bằng tất cả cuộc sống của Ngài. Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở thành thân thiết với mọi người và mỗi một người sinh ra trong cõi đời này. Ngài muốn nói với chúng ta rằng sự sống của con người là một giá trị thánh thiêng bất khả nhân nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng mỗi con người sinh ra trong thế gian này dù xấu xa, thấp hèn, mạt rệp đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, cũng đều là con cái của Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy, Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ, nghèo hèn của Ngài, cũng như qua những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.

Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây hơn 2,000 năm. Sự hiện hữu của Ngài là sự hiện hữu có giới hạn. Giới hạn trong một không gian, một thời đại, giới hạn trong một cách sống. Chúa Giêsu đã không hề là một người chồng, Chúa Giêsu không hề là một người cha trong gia đình. Chúa Giêsu cũng chưa từng sống trong một xã hội thuộc xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, cuộc nhập thể làm người của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tiếp tục tái diễn trong lịch sử nhân loại. Lễ Giáng sinh không chỉ đến mỗi năm một lần, nhưng tiếp tục được cử hành trong từng giây phút của cuộc sống chúng ta.

Thật thế, có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Ngài được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh, là khi chúng ta để cho Lời của Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta tiếp nhận ra ý nghĩa cuộc đời này cho dẫu chúng ta phải trãi qua biết bao nhiêu đắng cay, chua xót trong cuộc sống này. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quý của Thiên Chúa trong mỗi một người anh em của chúng ta. Và có lễ Giáng sinh, khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh đó không chỉ được cất hát lên mỗi năm một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng phút giây cuộc sống chúng ta.

Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể cũng tiếp tục nhập thể trong từng tâm tư, suy nghĩ, hành động và cư xử của chúng ta để mỗi người chúng ta bằng lời nói cũng như bằng chứng tá thinh lặng, chúng ta trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người. [Mục Lục]

8. Bài giảng của ĐTC Phanxicô

(Bài giảng của ĐTC Phanxicô trong Lễ Đêm Giáng Sinh 2015 tại Đền Thánh Phêrô – Lm Trần Công Nghị chuyển ngữ)

Đêm nay “một ánh sáng tuyệt vời” chiếu sáng (Is 9: 1); ánh sáng của Chúa Giêsu giáng sinh tỏa sáng chung quanh tất cả chúng ta. Thật đúng và thời điểm trong những lời của tiên tri Isaia mà chúng ta vừa nghe: “Ngài đã mang lại niềm vui dồi dào và niềm vui lớn lao” (9: 2)! Trái tim chúng ta đã vui mừng trong chờ đợi thời điểm này; bây giờ niềm vui sung mãn và tràn đầy, vì cuối cùng lời hứa đã được thực hiện. Vui mừng hớn hở là dấu chỉ chắc chắn rằng sứ điệp chứa đựng trong mầu nhiệm của đêm này thật sự là từ Thiên Chúa. Không còn nghi ngờ gì nữa; hãy để lại sự nghi ngờ đó cho những người còn bi quan, vì chỉ tìm kiếm lý lẽ không thôi thì không bao giờ tìm ra sự thật. Không có chỗ cho sự thờ ơ đó ngự trị trong trái tim của những người không thể yêu vì sợ mất một cái gì đó. Tất cả nỗi buồn đã bị trục xuất, vì Hài Nhi Giêsu mang lại sự an ủi đích thật cho mọi trái tim.

Hôm nay, Con Thiên Chúa sinh ra, và tất cả mọi thứ thay đổi. Đấng Cứu Thế của thế giới đến để tham dự vào bản tính con người của chúng ta; chúng ta không còn lẻ loi và bị bỏ rơi. Đức Trinh Nữ cho chúng ta Con của Ngài như là sự khởi đầu của một cuộc sống mới. Ánh sáng thật đã đến để soi sáng đời sống chúng ta mà thường xuyên bị bao vây bởi bóng tối của tội lỗi. Hôm nay, chúng ta một lần nữa phát hiện ra chúng ta là ai! Tối nay chúng ta đã được chỉ cho biết con đường để đạt được đoạn kết của cuộc hành trình. Bây giờ chúng ta phải bỏ đi tất cả nỗi sợ hãi, vì ánh sáng cho chúng ta thấy con đường đến Bethlehem. Chúng ta không còn bị bỏ lại đàng sau nữa; chúng ta không được phép đứng nhàn rỗi. Chúng ta phải bước ra đi để xem Đấng Cừu Thế của chúng ta nằm trong máng cỏ. Đây là lý do để vui mừng hớn hở của chúng ta: Hài Nhi này đã được “sinh ra cho chúng ta”; Ngài đã được “ban cho chúng ta”, như tiên tri Isaia đã loan báo (9: 5). Biết bao con người qua hai ngàn năm đã đi qua tất cả các con đường của thế giới để loan báo cho mỗi người đàn ông và người phụ nữ hầu chia sẻ niềm vui này mà bây giờ là sứ mệnh của mỗi người chúng ta làm cho vị “Hoàng tử của hòa bình” và trở nên người tôi tớ hiệu quả ở giữa của các quốc gia.

Vì vậy, khi chúng ta nghe về câu chuyện Giáng sinh của Chúa Kitô, chúng ta hãy im lặng và để cho Hài Nhi này nói. Chúng ta hãy đem lời nói của Ngài vào trong tâm hồn trong chiêm niệm say mê về khuôn mặt của Ngài. Nếu chúng ta bồng Ngài trong vòng tay và để cho mình được Ngài ôm, Ngài sẽ đem đến hoà bình vô tận trong trái tim. Hài Nhi này dạy chúng ta những gì là thực sự cần thiết trong cuộc sống của chúng ta. Ngài sinh ra trong sự nghèo đói của thế giới này; không có chỗ trong nhà trọ cho Ngài và gia đình của Ngài. Ngài đã tìm thấy nơi trú ẩn và hỗ trợ trong chuồng chiên và được đặt nằm trong máng cỏ cho gia súc. Chưa hết, từ chỗ hư vô này, ánh sáng vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa. Từ bây giờ, con đường giải thoát đích thực và sự cứu rỗi viên mãn được mở ra cho mỗi người đàn ông và người phụ nữ, những người có trái tim đơn sơ. Hài Nhi này, với khuôn mặt chiếu tỏa sự tốt lành, lòng thương xót và tình yêu của Chúa Cha, huấn luyện cho chúng ta, các môn đệ của Ngài, như Thánh Phaolô nói, “hãy chối bỏ những con đường không có Chúa” và sự phú qúy của thế gian, để sống “tiết độ, công minh, sốt sắng “(Tit 2:12).

Trong một xã hội thường xuyên bị đầu độc do chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa khoái lạc, giàu có và xa hoa, vẻ bề ngoại và tự đại, Hài Nhi này kêu gọi chúng ta phải hành động nghiêm nghị, nói cách khác, trong một cách thế đơn giản, cân bằng, phù hợp, có khả năng thấy và làm những gì cần thiết. Trong một thế giới mà tất cả mà thường là tàn nhẫn với người tội lỗi nhưng nhân nhượng với tội lỗi, chúng ta cần phải nuôi dưỡng một ý thức mạnh mẽ về công lý, để phân biệt và làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Giữa một nền văn hóa của sự thờ ơ mà không phải là không thường xuyên trở thành tàn nhẫn, phong cách sống của chúng ta phải là đạo đức, đầy sự cảm thông, lòng từ bi và lòng thương xót, hàng ngày xuất nguồn từ nguồn cội của sự cầu nguyện.

Giống như những người chăn chiên của Bethlehem, có thể chúng ta cũng vậy, với đôi mắt đầy kinh ngạc và bỡ ngỡ, khi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, Con Thiên Chúa. Và trước sự hiện diện của Ngài, ước chi trái tim của chúng ta oà tung ra trong lời cầu nguyện: “Lậy Chúa, xin chỉ cho chúng con lòng thương xót của Chúa và ban cho chúng con ơn cứu độ” (Tv 85: 8). [Mục Lục]

9. Noel! Ngày lễ Hòa Bình – Thiên Phúc

Ở thế chiến thứ hai, trên một mặt trận giữa hai nước Pháp và Đức, quân của hai bên giành nhau từng chiến hào; gây cấn đến độ vô phúc cho người nào sơ ý ló đầu ra khỏi chỗ núp là nát đầu ngay. Đó là tình hình vào những ngày 21, 22, 23 tháng12, 1943. Các sĩ quan hữu trách của cả hai bên đều đề phòng cấm ngặt binh sĩ của họ không được lơ là bỏ vị trí chiến đấu kể cả ngày Noel. Đến chiều 24 tháng 12, vẫn là bầu khí ngột ngạt của tử thần. Không có hưu chiến. Đó là lệnh cấp trên truyền xuống.

Đêm về, trong bầu khí yên lặng căng thẳng đó, bỗng một tiếng hát vọng lên từ một thông hào: “Đêm thanh bình, đêm ơn lành!” (Silent Night), rồi nhiều tiếng hát vọng theo, rồi người ta nghe cả hai phía Pháp Đức đều vang dậy tiếng hát Giáng Sinh; không ai bảo ai, bất chấp quân lệnh, binh sĩ của cả hai bên đều bật dậy, bỏ vị trí chạy lại bên nhau, ôm nhau cười nói, chúc lễ Giáng Sinh cho nhau. Họ trao cho nhau đồ dùng, cùng ăn uống với nhau như thể là những người bạn thân lâu ngày hội ngộ. Trước cảnh đó, các vị chỉ huy đều đồng ý hưu chiến đến hết ngày hôm sau.

Ngày 25-12 năm 1943 là một ngày đáng ghi nhớ cho những người ở trận tuyến đó. Hai bên Đức, Pháp cách đó mấy giờ là tử thù của nhau, bây giờ họ cùng chụp hình, trao kỷ niệm, chơi bóng, ăn chung với nhau như những người anh em rất yêu quí. Noel, ngày lễ Hoà bình.

***

Giáng Sinh là lễ của Hòa Bình. Hàng năm, cứ vào lễ Giáng Sinh, dù chiến trận có sôi sục đến đâu, người ta cũng thường dàn xếp để hai bên có được thời gian mừng lễ. Đó gọi là ngày hưu chiến. Sở dĩ có hưu chiến trong ngày lễ Giáng Sinh vì Ngôi Hai đã xuống thế làm người để giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và loài người. Giao ước cứu chuộc sẽ được ký kết bằng máu của Ngôi Hai là Thiên Chúa và cũng là người thật. Đó là niềm vui vô cùng lớn lao của cả loài người được ơn cứu độ. Từ nay, tội tổ tông đã được tẩy xoá nhờ máu thánh của Con Thiên Chúa. Con người không còn vương vấn tội nhơ thì an bình sẽ ngự trị trong tâm hồn: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”

***

Lạy Chúa, tâm hồn bình an thì không còn hận thù, đố kỵ, ganh ghét, nhưng luôn tin yêu, hy vọng, vui sống. Xin ban cho con sự bình an của Chúa để con luôn là sứ giả của an bình. Chúa đã hứa: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” Xin cho cầu nguyện cảm nếm được sự ngọt ngào của an bình trong tâm hồn và như thế là đủ cho con rồi. Vì có Chúa là đời con bình an. Amen! [Mục Lục]

10. Ánh sáng rạng ngời – Ga 1,1-14

(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)

Vào một đêm kia, nhà văn Anh John Ruskin nhìn thấy những người thợ thắp đèn đường trong thành phố (lúc đó chưa có điện đường). Họ phải cầm một ngọn đuốc chiếc đèn khác dọc theo các con đường.

Trong đêm tối, Ruskin không thấy được người thắp đèn, ông chỉ nhìn thấy bó đuốc của người ấy và một vệt dài ánh sáng người ấy để lại đàng sau mình. Qua hình ảnh đó, cụ già Ruskin đưa ra một nhận định hết sức thâm thúy: “Đây là một minh họa tuyệt đẹp về người Kitô hữu. Có thể người ta chẳng bao giờ nhận biết người ấy, cũng chẳng bao giờ gặp anh, nhưng họ đều biết anh ta đã đi qua thế giới của họ nhờ vào chuỗi ánh sáng anh để lại phía sau mình”.

***

Giáng sinh là một biến cố vô cùng trọng đại, một trang sử mới của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh thánh, nối kết giữa trời và đất, giao hòa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng rạng ngời, đã chiếu soi trần gian trong đêm u tối, nguồn ánh sáng của tình yêu, chân lý, và sự sống. Thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).

Ánh sáng tình yêu

Thiên Chúa là đấng quyền năng vô hạn, con người là phận hèn mọn. Thiên Chúa là đấng sáng tạo muôn loài, con người là vật thụ tạo nhỏ nhoi. Trớ trêu thay, loài hay chết lại liều mình xúc phạm đến Đấng cao cả. Phận tôi đòi lại cả dám ngạo mạn Đấng Thánh vô cùng đã vượt lằn ranh vô biên, đích thân xuống với con người, để tha thứ, cứu chuộc và yêu thương họ còn hơn cả trước khi con người phạm tội. Đứng trước đại hồng ân cao cả ấy, trí khôn con người chỉ còn biết bàng hoàng sửng sốt. Vâng, chính tình yêu đã làm nên những điều kỳ diệu. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng tình yêu từ trời xuống, đã thắp sáng màn đêm tăm tối của trần gian bằng tình yêu cứu thế. Đúng như lời ngôn sứ Isaia: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1).

Ánh sáng chân lý

Mang thân phận tội lỗi, con người chao đảo trong biển đời u mê lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói chi đến hiểu biết về Thiên Chúa cao siêu thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, Ánh sáng rạng ngời chân lý, mới có thể chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để họ nhận biết Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là mục đích hàng đầu của Đức Giêsu khi xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18).

Ánh sáng ban nguồn sống.

Từ nguyên thủy, Ngôi Lời đã sống trong tương quan độc nhất với con người. Thật vậy, Người không chỉ là nguồn gốc của muôn loài, mà sự hiện diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông trong sự sống thần linh.

Ánh sáng của Hài Nhi Giêsu khi đem xuống trần gian không chỉ xóa tan bóng tối của trí khôn, mà còn chiếu tỏa vào linh hồn con người ánh sáng trọn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Người phán: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống” (Ga 8,12).

Mừng lễ Giáng Sinh chính là cảm tạ Hài Nhi Giêsu đã đem ánh sáng huy hoàng của Người đến trong trần gian, trong tâm hồn chúng ta, và trong lòng mọi người.

Mừng lễ Giáng Sinh chính là bắt chước Gioan, làm chứng cho Ánh Sáng: là chiếc đèn soi đường cho thế gian, là ngọn đuốc chỉ lối cho mọi người đến cùng Thiên Chúa.

Mừng lễ Giáng Sinh chính là thực thi những điều thiện hảo, vì “ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3,20).

***

Lạy Hài Nhi Giêsu, Ánh sáng rạng ngời. Xin cho chúng con luôn trở nên ngọn đèn rọi sáng giữa đêm đen. Xin dậy chúng con biết tích cực lan tỏa ánh sáng đến các tâm hồn, để Ánh sáng rạng ngời của Chúa luôn luôn tỏa sáng. Amen. [Mục Lục]

11. Ôn cố tri tân – Lm JP. Vũ Minh 

(Suy niệm Lễ Giáng Sinh 2013 – Lễ Nửa Đêm)

Cuộc kiểm tra đầu tiên (Lc 2:1-3): Kinh Thánh Sử Gia Eusebius* (260-340) đã nhắc tới cuộc kiểm tra này, và còn nói thêm là người Do Thái thời đó cho rằng việc kiểm tra để bắt dân chúng đóng thuế không khác hơn là Đế Quốc La Mã ra lệnh kiểm tra để đánh thuế sẽ làm cho họ trở thành như những người nô lệ, và đây cũng là khởi điểm để người Do Thái vùng lên chống lại bạo quyền. Xã hội Hoa Kỳ cũng làm kiểm tra 10 năm một lần không phải vì để tìm người đóng thuế nhưng là để phân định lãnh thổ chính trị trong nước và theo tỷ số mà chọn những người đại diện cho dân làm dân biểu trong quốc hội, và di chuyển nguồn lợi từ thuế má để trang trải cho những phí khoản về y tế và trợ giúp người nghèo. Người trong xã hội tự do này tuy dù phải đóng thuế nhưng người ta không phản loạn vì họ nhận thấy việc đóng thuế là một điều đương nhiên trong khi đó ở xã hội cộng sản – như ở Việt Nam – người ta phải đóng thuế, nhưng tiền thuế đó dân không được hưởng; trái lại, những số tiền đó chỉ có làm giầu cho những người thu thuế và những người này cũng phải “chung tiền” lại cho cấp trên… do đó thuế má trong xã hội cộng sản không đem lại lợi ích gì cho công chúng.

Các mục đồng: Họ là những bần cố nông chỉ biết làm lụng để nuôi sống cho mình và gia đình họ; họ bị kềm chế mọi mặt nhất là về thuế má và không có cơ hội để vươn lên; họ là những người ngày đêm lái xe vận tải hay xe đò, những người chỉ biết làm thợ thuyền trong các công xưởng… họ không có tương lai, nhưng giờ đây họ được thiên thần loan tin là một vị cứu tinh sẽ đến để giải thoát họ trong cảnh lầm than này. Họ rất hoan hỷ khi nghe tin đó vì lý do tại sao nữa?

Thành của David (Lc 2:11): Vua Đavid, theo truyền thống, đã được sinh ra ở Be-Lem (nhà của bánh mì), là vị vua đầu tiên mà Thiên Chúa chọn – người tuy dù nhỏ bé nhưng đã đánh chết người lính thuộc dòng giống khổng lồ (David và Goliad) – để lãnh đạo và làm ổn định xã hội của dân Chúa nơi Đất Hứa. Nhà của bánh này cũng có nghĩa là “Bánh Hằng Sống bở trời” để nuôi sống trần gian (Ga 6:26-58)!

Bọc trong khăn vải sô (Lc 2:12): Vua Salomon là con của Vua Đavid đã viết trong Sách Khôn Ngoan rằng chính ông cũng đã được bọc trong khăn vải sô khi ông chào đời (KN 7:3-6); do đó, Vị Cứu Tinh mà thiên thần loan báo thuộc về dòng giõi David sẽ lên ngôi để cứu họ khỏi cảnh lầm than. Thêm vào đó, các mục đồng biết rằng những con chiên mà họ bán để làm con vật tế sinh sẽ phải là những con chiên không tỳ ố và họ thấy những con chiên lành mạnh tốt đẹp thì họ sẽ để riêng ra để chăm sóc thì sau đó họ mới bán dược nhiều tiền… những con chiên đo sẽ được họ gói bó thật kỹ trong những vải sô như Vua Solomon đã được gói trong đó (tấm – không mịn màng như cám – nhưng vẫn còn êm ấm chứ không như vải gai khó chịu)… Chúa Giêsu cũng đã được tẩm liệm khi chết bằng tấm vải sô… Các mục đồng nghe lời các thiên thần và hiểu ngay là đứa trẻ này sẽ là con chiên làm lễ tế sinh cho họ và họ thấy mừng vui cho số phận của mình. Số phận của bạn thế nào thì bạn đã biết… và trong cảnh trầm luân này, bạn có hy vọng gì thì hãy dâng lời nguyện xin để cho mọi ước vọng của bạn được toại nguyện, và biết thêm rằng: chúng ta chỉ biết cậy nhờ vào Thiên Chùa trong mọi sự mà thôi!

Nằm trong máng cỏ (Lc 2:12): Máng cỏ là chỗ để đồ ăn cho bò lừa và dê chiên. Tuy dù là nơi để nuôi thú vật, Đấng Cứu Tinh này nằm trong máng cỏ cũng là biểu tượng của ơn từ Trời để nuôi sống mọi loài trên trần gian; do đó, khi Chúa Giêsu nói: “Ta là Bánh Hằng Sống, là bánh ban phát từ trời…” (Ga 6:26-58), lời này mang ý nghĩa rất sâu đậm mà các mục tử là những kẻ tin đã hiểu ngay về tin vui này và họ đã tấp tốc đi tìm Đấng Cứu Tinh mà thiên thần đã báo cho họ. Xin bạn hãy cùng vui với tôi, và chúng ta đi tìm Chúa Giêsu Đấng cứu Tinh cho đời mình theo lời của thiên thần loan báo.

Nguyện xin lời của thiên thần và chứng nhân của các mục tử sẽ làm cho anh chị em vui mừng khi chúng ta đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh 2013! [Mục Lục]

12. Ánh Sáng đã đến thế gian – Anmai 

Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài nhưng rồi tội lỗi đã làm cho tình yêu đó bị vụn vỡ. Thế nhưng, dù con người thế nào đi chăng nữa, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người.

Thuở đầu mới tạo dựng, ánh sáng, tình yêu của Thiên Chúa chan hòa và chiếu tỏa trên con người cách riêng nơi ông bà nguyên tổ Ađam – Eva. Điều đáng tiếc là hai ông bà đã không nhận ra hay nói một cách khác là khước từ tình yêu của Thiên Chúa. Từ giây phút hái trái cấm cũng chính là giây phút khước từ tình yêu Thiên Chúa. Khi, ấy bóng tối của tội lỗi đã bao trùm trần gian. Tội lỗi của hai ông bà không dừng lại ở nơi hai ông bà mà ngay chính con của hai ông bà cũng đã khước từ tình yêu Thiên Chúa bằng cách giết hại chính đứa em mình. Cain đã giết Aben cũng chỉ vì hờn ghen, cũng chỉ vì ganh tỵ.

Bóng tối của tội lỗi cứ lan tràn mặt đất. Nhưng, bên cạnh đó, lời hứa của Thiên Chúa chính là lời hứa cứu độ cũng được gởi đến ngay lúc hai ông bà phạm tội. Thiên Chúa đã phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (St 3, 14.15).

“Dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi”. Dòng giống ấy được tiên báo đó chính là Đức Trinh Nữ Maria. Và, từ Mẹ, Đấng Cứu Độ trần gian được sinh ra như lời đã hứa.

Giữa đêm tối của tội lỗi, giữa bóng tối của kiêu căng có một luồng sáng mới chiếu tỏa, có ơn cứu độ xuất hiện. Ánh sáng, ơn cứu độ đó được Isaia nói trong trang sách hôm nay:

Dân đang lần bước giữa tối tăm

đã thấy một ánh sáng huy hoàng;

đám người sống trong vùng bóng tối,

nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.

Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ,

đã tăng thêm nỗi vui mừng.

Họ mừng vui trước nhan Ngài

như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt,

như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.

Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ,

và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian. (Is 9, 1-3)

Và, Isaia cũng loan báo:

Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình. Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó”.

Thế đấy ! Cũng chính vì yêu thương, Đức Chúa sẽ thực hiện điều đó cho dân.

Lời hứa cứu độ mà Đức Chúa hứa ở vườn Địa Đàng, lời hứa mà Đức Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia loan báo đó được thực hiện vào thời Đức Trinh Nữ Maria.

Thánh sử Luca ghi lại thời gian, không gian rất rõ ràng: “Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giu-se từ thành Nadarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”. (Lc 2, 1-7).

Hôm nay muôn dân đã được thấy Ánh Sáng của Thiên Chúa. Ánh Sáng của Thiên Chúa không như ánh sáng của thế gian. Ánh Sáng của Thiên Chúa đến nhưng rồi ta lại bắt gặp những con người hết sức đơn sơ nghèo hèn đến gặp Ánh Sáng chính là những mục đồng. Những mục đồng chăn chiên, chúng ta biết rằng cuộc sống và đời của họ như thế nào. Nay đây mai đó, chẳng có gì là ổn định, chẳng có gì là bảo đảm cho cuộc sống của họ cả và rồi nghe tiếng của thiên thần, họ đã đến và tìm gặp Ánh Sáng của Thiên Chúa.

Ánh Sáng của Thiên Chúa đã đến trần gian này hơn hai ngàn năm rồi nhưng Ánh sáng đó vẫn bị khước từ như những chủ quán trọ ngày xưa, như những người Biệt Phái và Luật Sĩ ngày xưa. Họ là những người giữ đạo rất tốt và họ cũng đang mong chờ Đấng Mêsia đến với đời họ nhưng rồi họ không tìm gặp được Đấng mà họ mong đợi bởi lẽ suy nghĩ của họ khác, cái nhìn của họ khác và cung cách sống của họ khác.

Những mục đồng đơn sơ nghèo hèn đã đến và đã thờ lạy Ánh Sáng. Không chỉ dừng ở chỗ đến thờ lạy mà các mục đồng cũng đã đi loan báo tin vui Đấng Cứu Độ đã đến trần gian. Lời loan báo cứu độ có đó nhưng rồi mấy ai đón nhận lời đó.

Thánh Gioan đã nhắc nhớ sự khước từ của lòng người:

Ngôi Lời là ánh sáng thật,

ánh sáng đến thế gian

và chiếu soi mọi người.

Người ở giữa thế gian,

và thế gian đã nhờ Người mà có,

nhưng lại không nhận biết Người.

Người đã đến nhà mình,

nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.

Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,

thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. (Ga 1, 9-12)

Ai tin và đón nhận Ánh Sáng vào trong đời mình sẽ được trở nên con Thiên Chúa

Khi Ánh Sáng xuống trần gian, ta thấy muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” Thiên Chúa đã gửi Ánh Sáng xuống trần gian để mang ơn cứu độ đến cho muôn người rồi nhưng liệu rằng người ta có đón nhận Ánh Sáng đó hay không mà thôi.

Mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh không phải là mừng một biến cố, mừng một kỷ niệm để rồi tổ chức lễ nghi linh đình và tiệc tùng hoành tráng. Mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh để nhắc nhớ ta rằng Ánh Sáng đã đến thế gian thật rồi. Hãy mở lòng ra đón nhận Ánh Sáng đó vào trong cuộc đời chúng ta.

Tâm tình Thánh Phaolô trong thư gửi cho Titô thật hay: Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này

Để mừng Đại Lễ Giáng Sinh thật ý nghĩa, chắc có lẽ chúng ta cũng phải nhìn lại cuộc đời của mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày bớt đi lòng đam mê trần tục, sống chừng mực và công chính. Chỉ có như thế Ân Sủng của Ánh Sáng mà Thiên Chúa trao ban mới có thể đến và ở lại trong cuộc đời của ta được. [Mục Lục]

13. Ba quả táo – Lm Giuse Nguyễn Hữu An 

LỄ GIÁNG SINH

Một bạn giáo lý viên mới mua điện thoại iphone, đến khoe và hỏi tôi: tại sao quả táo trên iphone bị khuyết mất một góc? Tôi lên google tìm câu trả lời và thú vị biết thêm mấy quả táo đặc biệt nữa.

Trong lịch sử nhân loại có ba quả táo nổi tiếng liên quan đến đời sống con người. Đó là quả táo của bà Evà trong trình thuật sách Sáng thế, quả táo của Newton trong định luật vạn vật hấp dẫn và quả táo của hãng Apple qua ứng dụng ipad iphone không ngừng cải tiến.

  1. Quả táo Newton

Isaac Newton (1642-1727) là nhà vật lý, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là “người sáng lập ra vật lý học cổ điển”. Ông đã khám phá ra “Nguyên lý vạn vật hấp dẫn”. Đây là nguyên lý cơ sở cho những phát minh vật lý học, cơ học, thiên văn học trong nhiều thế kỷ.

Vào một ngày mùa thu, Newton ngồi trên chiếc ghế trong vườn hoa đọc sách, bỗng nhiên một quả táo từ cây rơi xuống “bịch” một tiếng trúng đầu Newton. Ông xoa đầu, nhìn quả táo chín lăn xuống vũng bùn. Quả táo đã cho ông một gợi ý làm ông nghĩ miên man.Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất? Tại vì gió thổi chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời chứ? Như vậy trái đất có cái gì hút nó sao? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, hòn đá đã ném đi rốt cuộc lại rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất không?

Sau này Newton nêu ra: mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau. Vì có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.

Chuyện quả táo rơi xuống đất chứng tỏ trái đất có lực hút quả táo, đương nhiên quả táo cũng có lực hút của trái đất, nhưng lực hút của trái đất đối với quả táo lớn nên quả táo rơi xuống đất. Nếu ta coi mặt trăng là một quả táo khổng lồ, như vậy trái đất cũng có lực hút nó, vậy tại sao nó không rơi xuống mặt đất? Vì mặt trăng là một quả táo lớn, sức hút của trái đất đối với nó không đủ để làm nó rơi xuống đất, chỉ có thể làm nó quay quanh trái đất mà thôi. Đối với mặt trời thì trái đất cũng là một quả táo khổng lồ, nó quay quanh mặt trời.

Vào buổi tối khi nhìn lên bầu trời thấy vô vàn những vì sao đang nhấp nháy, giữa chúng đều có lực hút lẫn nhau. Đây chính là định luật “Vạn vật hấp dẫn” nổi tiếng của Newton.

  1. Quả táo Steve Jobs

Apple Inc là tập đoàn công nghệ máy tính của Hoa Kỳ.Theo số liệu khảo sát đầu năm 2013 của IDC, Apple đã trở thành hãng điện thoại lớn thứ nhất thế giới, đứng trước Nokia và Samsung. Hàng của Apple nổi tiếng là đẹp, vừa toát lên vẻ hiện đại, kỹ nghệ cao, vừa tiện dụng. Logo đầu tiên của hãng do Steve and Wayne thiết kế năm 1976 vẽ hình nhà vật lý Isaac Newton ngồi dưới gốc cây táo và có dòng chữ Apple Computer Co quấn quanh.Sau đó, logo đã được thay đổi bởi nhà thiết kế Rob Janoff với một quả táo màu cầu vồng (vì nó có nhiều màu sắc) và bị cắn một bên phải được cho là để kỷ niệm sự kiện khám phá lực hút trái đất và sự tán sắc ánh sáng của Isaac Newton.Qua vài năm, logo Apple xuất hiện với nhiều màu sắc khác nhau và đến giờ thì chỉ sử dụng màu trắng hoặc màu crôm bạc.Theo quan niệm của người phương Tây thì táo tượng trưng cho sức mạnh, sự khám phá và cái đẹp cao quý.Còn về chi tiết quả táo bị cắn mất một miếng phía bên phải cũng có một cách lý giải khác là xuất phát từ một quả táo nguyên vẹn, nhưng Steve Jobs cho là Apple chưa thực sự hoàn hảo, và ông luôn muốn đi tìm kiếm sự hoàn hảo, coi như là một thông điệp để nhắc nhở các nhân viên phải luôn sáng tạo.

  1. Quả táo Evà

Sách Sáng Thế kể về công trình sáng tạo tốt đẹp, vũ trụ chào đời, mùa xuân về theo gió, nắng phủ cho rừng lá xanh, muôn hoa xinh tươi vẫy gọi. Thiên Chúa chúc lành trao quyền làm chủ muôn loài cho Nguyên Tổ với một điều kiện duy nhất là phải tuân phục: “Mọi cây trong vườn ngươi đều được ăn. Nhưng cây ‘sự biết tốt xấu’ ngươi không được ăn, vì chưng ngày nào ngươi ăn nó, tất ngươi phải chết” (St 2,16-17).

Ađam, Evà phơi phới trong hạnh phúc mùa xuân địa đàng.Thế rồi một hôm, Evà đi dạo một mình trong vườn Eđen, ngang qua cây biết lành biết dữ. Không may gặp phải Satan quyến rũ. Lời Satan đường mật: Evà, Evà ơi, cô có muốn giữ mãi nhan sắc tuyệt vời này không? hay cô có muốn bằng Đức Chúa Trời không? Evà phản kháng: không dám đâu, không dám đâu, đừng dụ dỗ tôi, Thiên Chúa đã dặn kỹ lắm rồi. Sau một hồi đôi co lý sự, con rắn ngọt ngào: “Chẳng chết chóc gì đâu, Thiên Chúa biết ngày nào người hái quả táo ấy mà ăn mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu” (St 3, 4-5).Người thiếu nữ thấy giấc mơ đẹp như màu hồng của quả táo “nhìn thì đã thấy sướng mắt” (St 3,6). Nàng đã hái. Nàng đã ăn. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.

Còn Ađam thì sao? Một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tiếng lương tâm và lời nài nỉ của người yêu: ăn đi anh, ăn đi, đây là cơ hội ngàn vàng, cơ hội chúng ta bằng Đức Chúa Trời đó anh; Ađam đừng ăn, nếu ăn sẽ vi phạm luật Chúa truyền, đừng, xin đừng…“Và ông đã ăn” (St 3,6). Lời Thánh Kinh ngắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược đến sa ngã của Ađam trước cám dỗ quá ư dịu ngọt. Thôi rồi, xong hết cả rồi, còn đâu địa đàng, còn đâu ân nghĩa Thiên Chúa dành cho ngươi, Ađam ơi !

Nguyên Tổ cắn vào quả táo “Mắt họ liền mở ra và họ thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân” (St 3,7). Kể từ đó Địa Đàng đóng ngõ cài then. Xuân Địa Đàng đã thành mùa đông ảm đạm cho trần thế. Kinh Thánh viết về một nổi đớn đau làm sao: “Những gai cùng góc nó sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ lả ngoài đồng nội. Mồ hôi đẫm mặt, ngươi mới có bánh ăn cho đến lúc ngươi về lại với bụi đất” (St 3,18-19).

  1. Giáng sinh đất trời giao duyên

Trong ba quả táo đó thì quả táo của bà Evà có tầm vóc và mức độ ảnh hưởng sâu rộng hơn cả, không chỉ ghi dấu trên một thế hệ mà còn “gây hậu quả nghiêm trọng” đến sự tồn vong của cả nhân loại gọi là “Tội Tổ Tông”.

Nhưng cũng từ ngày quả táo Eva nhiễm nộc độc Satan, nhân loại lại được nghe vang lên lời hứa của Thiên Chúa: một người thuộc dòng giống người nữ sẽ đến giải cứu “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Một người trong dòng giống người nữ, đó là Đấng Cứu Thế (Gl 4,4). Người nữ ấy chính là Đức Maria (Lc 1,30-33). Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới quyền lực sự dữ.Người hứa sẽ thực hiện cứu độ con người và nhân loại. Niềm tin đó đi liền với niềm hy vọng. Nên từ đó, lời kinh cầu luôn vang vọng qua các thế hệ: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng Chuộc Tội. Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời”.

Thiên Chúa đã nghe tiếng vọng cầu kinh. Ngài đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa vào đời nối lại tình người với tình thánh, làm nhịp cầu liên kết con người với Thiên Chúa và nối kết con người với nhau. Bởi vậy, Mầu nhiệm Nhập Thể chính là Mầu nhiệm Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban chính Con Một của mình đến trần gian làm người để cứu nhân loại khỏi tội lỗi, để đem ơn bình an cho con người.Thánh Luca ghi lại dấu chỉ để nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa, đó là “một Hài Nhi bọc tã, nằm trong máng cỏ”.

Trong đêm Đấng Cứu Thế Giáng Sinh, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa“ (Lc 2, 11). Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Dấu chỉ quá bình thường, chẳng có gì đặc biệt.

Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân hộ khẩu.Các quán trọ khinh người nghèo hất hủi. Hài Nhi Giêsu chào đời nơi đồng hoang giá lạnh. Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm.

Chẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng.Tất cả những gì họ thấy chỉ là một Hài Nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một Hài Nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ. Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó. Chỉ bằng con tim, những mục đồng mới có thể thấy nơi Hài Nhi này sự viên mãn lời hứa của tiên tri Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9,5).

Dấu chỉ của Thiên Chúa thật là đơn sơ. Đó là một Hài Nhi mới sinh. Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta. Ngài không đến với quyền lực và một bề ngoài xa hoa. Ngài đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngài không muốn choáng ngợp chúng ta với sức mạnh của Ngài. Vì thế, Ngài đã hóa chính mình thành nhỏ bé. Ngài không muốn điều gì khác nơi chúng ta ngoại trừ tình yêu, qua đó chúng ta phải học biết cách tiếp cận với cảm giác, tư duy và ý chí của Ngài. Chúng ta học biết sống với Ngài và thực hành với Ngài sự khiêm hạ từ bỏ mình là điều tinh túy nhất của tình yêu. Ngài đã hóa thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu Ngài, chào đón Ngài, và yêu thương Ngài.

Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.

Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao. Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang đá bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn. Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt. Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.

Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.

Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.

Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.

Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại. Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang…. Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi nhà thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn màu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:“Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14)

Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau.Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau. Dấu chỉ của tình yêu nằm nơi sự đơn sơ của tấm khăn bọc Hài Nhi, đó là sự chân tình không lừa lọc giả dối.Dấu chỉ của tình yêu ở nơi sự nghèo hèn của máng cỏ, đó là sự phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa không cậy dựa vào vật chất thế gian.

Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng ban cho mỗi người chan chứa ân sủng và bình an của Tình Yêu Thiên Chúa. [Mục Lục]

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *