Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Xuất Hành

 

SÁCH XUẤT HÀNH  (chương 1-7)

Phần 1:

Phần 2:

I. TỔNG QUÁT

1,1-7: Sự lớn mạnh của dân Israel bên Ai Cập

1,8-14: Dân Chúa bị áp bức

1,15-22: Am mưu tiêu diệt Dân Chúa

2,1-10: Vị anh hùng được sinh hạ

2,11-22: Môsê chạy trốn đến Midian

2,23-25: Thiên Chúa nhớ đến dân Israel

3,1-6: Thiên Chúa gọi Môsê từ bụi gai bốc cháy

3,7-15: Ơn gọi của Môsê. Mạc khải Danh Thiên Chúa. Chỉ thị về sứ mạng của Môsê

4,1-17: Môsê làm những dấu lạ

4,18-31: Môsê trở về Ai Cập. Cắt bì. Gặp Aaron

5,1 -6,1: Cuộc hội kiến đầu tiên với Pharao

6,2-13: Trình thuật khác về ơn gọi của Môsê

6,14-30: Gia phả của Môsê và Aaron

7,1-7: Thiên Chúa trấn an Môsê

 

II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA SÁCH XUẤT HÀNH

1. Ý nghĩa sách Xuất hành

Biến cố Xuất hành là tâm điểm kinh nghiệm đức tin của dân Israel. Biến cố này trở thành điểm quy chiếu cho dân trong mọi hoàn cảnh lịch sử (x. Is 40,3; Kng 11,5). Trong sách Xuất hành, Thiên Chúa tự mạc khải là vị Thiên Chúa dấn thân vào lịch sử nhân loại để giải thoát nhân loại, khác hẳn hình ảnh về Thiên Chúa trừu tượng và xa lạ người ta thường nghĩ. Cũng trong sách Xuất hành, Israel xuất hiện như là Dân Chúa qua giao ước Sinai. Đây là điều làm cho Israel khác hẳn các dân.

2. Sách Xuất hành với người Kitô hữu

Biến cố Xuất hành là tín hiệu báo trước Ơn Cứu độ được hoàn thành trong Chúa Kitô. Vì thế, sách Xuất hành cũng được gọi là Tin Mừng về Ơn Cứu Độ. Biến cố này còn gợi hứng cho những suy tư và hành động đức tin của người Kitô hữu ngày nay, vd. thần học giải phóng. Tuy nhiên, cần đặt biến cố Xuất hành trong tương quan với mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, vì chỉ như thế ta mới có thể hiểu đúng ý nghĩa của biến cố này trong nhãn quan Kitô giáo.

 

III. ƠN GỌI CỦA MÔSÊ (3,1-15)

1. Danh Thiên Chúa (YHWH)

Đối với Israel cũng như các dân vùng Cận Đông, tên của một người không chỉ là tên gọi bên ngoài nhưng còn là chính con người. Muốn biết tên một người là muốn bước vào quan hệ thân tình với họ. Vì thế không lạ gì khi Môsê xin được biết danh thánh Thiên Chúa.

Câu trả lời của Thiên Chúa cho Môsê là một câu rất huyền nhiệm : YHWH. Có những cách dịch khác nhau trong các bản dịch Thánh Kinh sang tiếng Việt, vd. Ta là Đấng tự hữu – Ta là Đấng hằng hữu – Ta là Đấng hiện hữu. Thiết nghĩ trong mỗi cách dịch đã hàm chứa một ý nghĩa thần học. Các học giả cố gắng tìm ra ý nghĩa của danh xưng này bằng cách nối kết với những lời Thiên Chúa nói với Môsê. Theo đó, danh xưng này muốn nhấn mạnh rằng Thiên Chúa là Đấng dấn thân và tham gia cách tích cực trong lịch sử của Dân.

2. Bụi gai bốc cháy

Có thể tác giả chọn từ ngữ bụi gai (trong tiếng Hípri là seneh) vì muốn liên hệ với sinai, núi của Thiên Chúa. Như thế, bụi gai bốc cháy ở đây nối kết với ngọn lửa trong cuộc thần hiện ở Sinai (19,18). Môsê vừa bị thu hút bởi cảnh tượng kỳ lạ, vừa kinh sợ và che mặt đi khi Đức Chúa tỏ mình. Đây cũng là kinh nghiệm thiêng liêng của các tiên tri như Isaia và Jeremia.

Thiên Chúa tỏ mình cho Môsê cũng là Thiên Chúa của các tổ phụ (3,16). Như thế, không chỉ vào thời Môsê nhưng Thiên Chúa đã luôn hoạt động qua bao thế kỷ vì yêu thương dân của Người. Môsê được gọi để trở thành phát ngôn viên của Chúa, nói thay cho Chúa. Truyền thống Do thái vẫn nhìn Môsê như một tiên tri (x. Đnl 18,15-20), và tiên tri chính là người nói nhân danh Chúa và vì hạnh phúc đích thực của Dân.

SÁCH XUẤT HÀNH  (chương 7-15)

I. TỔNG QUÁT

7, 8-13: Dẫn vào các tai ương. Thiên Chúa bày tỏ quyền năng trước Pharaô.

7, 41-25: Tai ương thứ nhất: nước biến thành máu.

7,26 – 8,11: Tai ương thứ hai: Ech nhái.

8, 12-15: Tai ương thứ ba: Muỗi.

8, 16-28: Tai ương thứ tư: Ruồi nhặng.

9, 1-7: Tai ương thứ năm: Ôn dịch.

9, 8-12: Tai ương thứ sáu: Ung nhọt.

9, 13-35: Tai ương thứ bảy: Mưa đá.

10, 1-20 : Tai ương thứ tám: Châu chấu.

10, 21-29 : Tai ương thứ chín: Cảnh tối tăm.

11, 1-10 : Loan báo tai ương thứ mười: các con đầu lòng phải chết.

12, 1-28: Nghi thức Vượt Qua. Công bố lễ Vượt Qua.

12, 29-39: Các con đầu lòng người Ai Cập bị giết. Dân Israel ra đi.

13, 3-10: Lễ Bánh không men.

13, 1-16: Các con đầu lòng người Do thái được cứu.

13, 17-22: Dân Israel ra đi.

14, 1-10: Người Ai Cập đuổi theo.

14, 15-31: Phép lạ tại Biển Đỏ.

15, 1 – 21: Bài ca chiến thắng.

 

II. CUỘC VƯỢT QUA CỦA DÂN ISRAEL VÀ CUỘC VƯỢT QUA CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

1. Cuộc vượt qua của người Do thái

Dân Israel phải sống trong cảnh nô lệ lầm than (Xh 1, 8-22). Nhưng Thiên Chúa đã thấy cảnh lầm than của họ và sai Môsê đến để giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ, đưa họ vượt qua Biển Đỏ (Xh 14, 15-31). Nhờ Chiên được sát tế và máu chiên bôi lên thành cửa, dân Israel được cứu thoát và lên đường đi đến miền đất tự do (Xh 12, 29-34. 12-14). Chính Thiên Chúa thực hiện cuộc giải thoát này bằng những điềm thiêng dấu lạ, nhưng Chúa đã chọn Môsê làm người lãnh đạo Dân Chúa và thực hiện kế hoạch của Người.

2.Cuộc vượt qua của người Kitô hữu

Nhân loại vẫn sống trong cảnh nô lệ tội lỗi là thứ nô lệ tồi tệ nhất, làm cho con người bị tha hoá, đánh mất phẩm giá đích thực của mình là hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Kitô là Môsê mới, là vị lãnh đạo của Dân mới. Chiên được sát tế trong lễ Vượt Qua là hình bóng Chúa Kitô hiến dâng chính mình, nhờ đó chúng ta được sống (x. Ga 19,31-37). Việc vượt qua Biển Đỏ loan báo bí tích Thánh Tẩy: giải thoát ta khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, biến ta thành con cái Thiên Chúa, và cho ta thành phần tử của Dân mới là Hội Thánh.

 

III. LỄ VƯỢT QUA VÀ CỬ HÀNH THÁNH THỂ

1. Cử hành lễ Vượt Qua

Môsê đưa ra những chỉ thị về việc cử hành lễ Vượt Qua (Xh 12,14) và người Do thái vẫn trung thành tuân giữ cho đến ngày nay. Trong nghi thức cử hành lễ Vượt Qua, sau tuần rượu thứ hai, một người con trong gia đình sẽ lên tiếng hỏi: tại sao đêm nay lại khác mọi đêm? Và người cha trong gia đình sẽ giải thích dựa vào Đnl 26,5-11.

2. Chúa Giêsu cử hành bữa Tiệc Ly

Chúa Giêsu đã cử hành Bữa Tiệc Ly trong bối cảnh lễ Vượt Qua (Lc 22, 14-20). Tuy nhiên trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã làm hai cử chỉ độc đáo. Một là Ngài chuyển chén rượu của người đứng đầu gia đình cho mọi người trong nhà, hai là Ngài thêm vào những lời minh giải: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em,” “Chén này là giao ước mới, lập bằng Máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.” Những lời này cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa Tiệc Ly và biến cố thập giá.

3. Thánh Thể, lễ Vượt Qua mới

Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly, “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.” Trong Thánh Kinh, tưởng niệm không chỉ đơn thuần là nhớ lại một sự kiện trong quá khứ, nhưng bao hàm cả ba chiều kích thời gian là hiện tại, quá khứ và tương lai (Xh 12,14). Chính vì thế, thần học Công giáo giải thích về tưởng niệm như là signum rememorativum (dấu chỉ tưởng nhớ hành động cứu độ đã xảy ra trong quá khứ), signum demonstrativum (dấu chỉ Ơn Cứu độ đang diễn ra trong hiện tại), signum prognosticum (dấu chỉ loan báo bữa tiệc cánh chung trong Nước Chúa).

Cử hành Thánh Thể là làm theo lời di chúc của Chúa Giêsu. Vì thế, trong suốt lịch sử, Hội Thánh không ngừng cử hành Thánh Thể (x. Cv 2,42.46; 1Cr 11,23), và người Kitô hữu phải hết sức trân trọng việc cử hành này.

 

SÁCH XUẤT HÀNH  (chương 16-24)

I. TỔNG QUÁT

Hành trình trong sa mạc (15,22 – 18,27)

15, 22-27: Mara

16,1-36: Manna và chim cút

17,1-7: Nước phun từ tảng đá

17,8-16: Giao chiến với người Amalek

18,1-27: Môsê gặp ông Jethro

Giao ước Sinai (19,1 – 24,11)

19,1 – 19,8: Bối cảnh. Thái độ với giao ước

19,9-20: Hai truyền thống về thần hiện

20,1-17: Mười điều răn

20,8-21: Môsê được chỉ định làm người trung gian

20,22-26: Dẫn vào luật giao ước

21,1- 23,33: Nội dung luật giao ước

24,1-18: Ký giao ước

 

II. KINH NGHIỆM SA MẠC

1. Kinh nghiệm của dân Israel trong sa mạc (15,22 – 18,27)

Được giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập, Israel còn phải trải qua hành trình lâu năm trong sa mạc mới được đặt chân vào Đất Hứa. Hành trình sa mạc đã ban tặng cho họ nhiều kinh nghiệm. Trước hết, họ kinh nghiệm về sự thiếu thốn lương thực cũng như những hiểm nguy đe doạ, và những khó khăn này không chỉ dừng lại ở mức độ vật chất nhưng còn dẫn đến những thử thách cho chính đức tin: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (17,7). Cùng với kinh nghiệm về những khó khăn và thử thách trong sa mạc, Dân Chúa lại cảm nghiệm được từng ngày và qua từng biến cố sự đồng hành và tình thương chăm sóc Thiên Chúa dành cho dân của Người.

2. Kinh nghiệm sa mạc trong đời sống Kitô hữu

Kinh nghiệm sa mạc của Dân Chúa trong Cựu Ước cũng giúp ta nhìn lại đời sống Kitô hữu của mình trong ánh sáng mới. Trở thành Kitô hữu là bước vào một hành trình dài trong đó ta phải đối diện với rất nhiều cám dỗ và thử thách, hi sinh và từ bỏ. Như Dân Chúa ngày xưa, nhiều lần ta cảm thấy mệt mỏi, muốn bỏ cuộc và quay về nếp sống cũ. Tuy nhiên chính những khó khăn và thử thách đó lại là những cơ hội Thiên Chúa dùng để giáo dục và thanh luyện ta nên giống Chúa Kitô hơn.

 

III. MƯỜI ĐIỀU RĂN (20,1-21)

1. Trong bối cảnh Giao Ước

Giao ước là sự thiết lập một tương quan trong đó quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên được xác định và chấp nhận, vd. giao ước giữa Giacóp và Laban (St 31,43-32,3). Tuy nhiên, giao ước giữa Thiên Chúa và Israel không phải là giao ước giữa hai bên ngang hàng với nhau. Đúng hơn, Thiên Chúa ký kết giao ước với Israel chỉ vì tình thương cho không. Môsê đã nhấn mạnh điều này nhiều lần, và trình thuật về Mười Điều Răn cũng làm nổi bật tình thương của Thiên Chúa giao ước: Mười điều răn được mở đầu bằng khẳng định của Thiên Chúa là Đấng đã trực tiếp can thiệp vào đời sống của dân: “Ta là Đức Chúa đã đưa ngươi ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập” (20,2). Thiên Chúa dùng ngôi thứ hai để nói trực tiếp với dân. Như thế, thập điều không phải là hệ thống luật pháp vô hồn, nhưng được đặt nền trên một ngôi vị.

2. Đón nhận Mười điều răn cách tích cực

Những nhận xét trên giúp ta khám phá Mười điều răn như là những điều khoản của giao ước tình yêu. Kinh nghiệm về giao ước hôn nhân có thể giúp ta hiểu phần nào ý nghĩa cao quý này. Trong giao ước hôn nhân có những điều khoản mà hai người phối ngẫu cam kết với nhau, chẳng hạn một vợ một chồng, chung thủy với nhau đến trọn đời. Tuy nhiên, tất cả những điều khoản đó được đặt nền trên tình yêu, và là sự diễn tả ra bên ngoài những đòi hỏi nội tại của tình yêu đích thực. Tương tự như thế, Mười điều răn là cách thể hiện tương quan yêu thương trong giao ước giữa Thiên Chúa và dân của Người. Tách biệt Mười điều răn ra khỏi tương quan giao ước sẽ biến Mười điều răn thành một bộ luật luân lý vô hồn và mất đi tính năng động của nó. Đồng thời khi nhìn Mười điều răn trong bối cảnh của giao ước, ta sẽ khám phá giá trị tích cực của Mười điều răn như con đường đưa đến sự sống phong phú chứ không chỉ là những rào cản ngăn lối hạnh phúc của con người như nhiều người ngày nay lầm tưởng.

 

SÁCH XUẤT HÀNH (chương 25-34)

I. TỔNG QUÁT

25,1-40: Đóng góp để dựng nơi thánh. Nhà Tạm và Hòm Bia. Bàn và trụ đèn
26,1-37: Những chỉ dẫn về việc làm nơi thánh trong sa mạc (Nhà Tạm, khung lều, bức trướng)

27,1-21: Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, khuôn viên nơi thánh, dầu thắp đèn.
28,1-43: Phần phục tư tế (Túi đeo, áo khoác, dầu thánh hiến)
29,1-46: Nghi thức thánh hiến (thanh tẩy, mặc phẩm phục, xức dầu) – Các lễ vật trong việc thánh hiến tư tế – Lễ toàn thiêu thường nhật

30,1-38: Những chỉ thị khác (hương án, thuế thân, vạc đồng, dầu tấn phong)
31,1-38: Tuyển chọn các nghệ nhân – Ý nghĩa ngày sabát
32,1 – 34,35: Tội lỗi của Israel và tái lập giao ước (Sự kiện con bê bằng vàng – Đức Chúa nổi giận – Môsê chuyển cầu – Tái lập giao ước)

 

II. NHÀ TẠM VÀ HÒM BIA GIAO ƯỚC

1. Ý nghĩa

Trong trình thuật về cuộc Thần hiện (24, 15b-18), tác giả nối kết cuộc thần hiện trên núi Sinai với việc xây cất thánh điện (40,17,33b). Cũng như mây bao phủ núi Sinai và vinh quang Đức Chúa ngự trị ở đó (24,15-16) thì mây cũng bao phủ Lều Hội Ngộ và vinh quang Đức Chúa tràn ngập thánh điện (40,34). Như thế, việc thờ phượng trên núi Sinai là mẫu mực cho việc thờ phượng của dân.

Đồng thời Đức Chúa truyền lệnh cho Môsê làm một nơi thánh để Chúa ngự giữa dân. Nơi này được gọi bằng hai từ là Lều Hội Ngộ (40,34) và Nhà Tạm (25,9). Thiên Chúa là Đấng siêu việt nhưng Nhà Tạm sẽ là nơi Ngài gặp gỡ con cái Israel (29,42-43). Hòm Bia là hòm làm bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi; trong hòm đặt bia đá mà Đức Chúa đã ban cho Môsê (câu 16,21 // 31, 18).

2. Cho đời sống Kitô hữu

Trong các nhà thờ Công giáo, Nhà Tạm là nơi thánh, nơi Chúa ngự giữa dân Ngài, nơi dân được gặp Chúa. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã đích thân đến ở giữa loài người (Ga 1,14), và Ngài còn ở lại với chúng ta cho đến tận thế (Mt 28,20) trong bí tích Thánh Thể. Nhà Tạm là nơi cất giữ Thánh Thể. Vậy tôi có thực sự coi đó là nơi thánh, nơi Chúa ở giữa cộng đoàn, nơi tôi gặp gỡ Chúa không? Mỗi khi ta rước lễ, chính lòng ta trở thành “nhà tạm” của Chúa. Liệu chúng ta có ý thức về điều đó không, hay thói quen đã làm phai nhạt ý thức về sự thánh thiện đó? Và liệu người ta có thể thấy nơi chúng ta sự thánh thiện và tình thương của Chúa không?

Ở đây cũng là dịp cho ta chiêm ngắm Mẹ Maria. Truyền thống Công giáo gọi Đức Mẹ là Hòm Bia Thiên Chúa vì Mẹ mang trong lòng dạ Mẹ chính Thiên Chúa làm người. Đây cũng là nền tảng để các thánh suy niệm về mầu nhiệm Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Chính vì Mẹ là Hòm bia Thiên Chúa nên Mẹ được giữ gìn khỏi tội Tổ tông truyền, và Mẹ được đưa về trời cả hồn lẫn xác. Đức Mẹ thực sự là dấu chỉ hi vọng và là mẫu gương tuyệt vời cho Dân Chúa trong hành trình về quê trời vĩnh cửu.

 

III. CON BÊ BẰNG VÀNG

Trình thuật về việc dân Isarel thờ lạy bò vàng (32,1-6) làm nổi bật ý nghĩa này: Con người tự làm ra thần thánh theo ý muốn của mình chứ không nhìn nhận Đấng Thiên Chúa đã làm nên họ và cứu sống họ (32,1). Ông Aaron đã nhượng bộ theo yêu cầu của dân quá dễ dàng.

Sách Xuất Hành cũng kể rằng Dân Israel muốn ruồng bỏ Môsê để có một vị lãnh đạo mới, và như thế họ ruồng bỏ chính Thiên Chúa (32,2-4). Sách Dân Số 12,1-8 còn ghi nhận Aaron đã chống lại Môsê khiến Đức Chúa nổi giận.

 

Trình thuật này là bài học quý giá cho người Kitô hữu. Chỉ trong Chúa Giêsu, ta mới biết Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Chỉ một mình Chúa Giêsu là “Đường đi, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,6). Vì thế, chỉ nơi Chúa Giêsu, chúng ta mới nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa đích thực, chứ không phải những thần thánh con người tự tạo ra theo sở thích và ý muốn của mình.

 

Thánh Phêrô và những đấng kế vị ngài là những người Chúa chọn để lãnh đạo Dân Chúa như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô, “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18).

Sức mạnh chống lại quyền lực tử thần không phải là sức mạnh của cá nhân Phêrô nhưng là quyền năng của Thiên Chúa hoạt động trong con người Phêrô cũng như trong các vị kế vị Thánh Phêrô và các tông đồ.

Chính tầm nhìn đức tin này dẫn ta đến thái độ vâng phục đối với Đức Giáo hoàng là “nguyên lý và nền tảng hữu hình, vĩnh cửu của sự hiệp nhất giữa các giám mục cũng như giữa các tín hữu” (Hiến chế Giáo Hội, số 23).

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *