- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu Tin mừng theo thánh Gio-an
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Sáng Thế
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Xuất Hành
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Lê-vi
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Đệ Nhị Luật
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Giô-sua
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Thủ Lãnh
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Bà Rút
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Samuel quyển thứ 1 và 2
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách ngôn sứ Amos
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách ngôn sứ Hô-sê
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu Tin mừng theo thánh Lu-ca
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu Thư thứ nhất và thứ hai của Thánh Phêrô
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu Tin mừng theo thánh Mát-thêu
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu Tin mừng theo thánh Máccô
TIN MỪNG THEO THÁNH GIOAN (chương 1-6)
—–o0o—–
https://youtu.be/v4CC34TiCVs
TỔNG QUÁT
1. Tác giả Tin Mừng thứ tư
Chỉ trong phần II của sách Tin Mừng thứ tư (13,23-25; 19,26; 20,2-8), đọc giả mới thấy nhắc đến “người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến” hoặc “người môn đệ khác”. Nhưng không có chỗ nào nói rõ tên người môn đệ ấy là Gioan. Tác phẩm chỉ cho biết người môn đệ này rất gắn bó với thánh Phêrô, ông ở bên cạnh Đức Maria trên đồi Golgotha, “ông đã thấy và đã làm chứng” (19,35). Dựa vào Tin Mừng nhất lãm, người ta biết ba môn đệ gần gũi Chúa Giêsu nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan (Mc 5,37; 9,2; 14,33). Giacôbê đã chết vào năm 44. Chỉ còn lại Phêrô và Gioan. Trong khi đó, sách Tin Mừng thứ tư cho biết Phêrô và “người môn đệ Chúa yêu” gắn bó với nhau, cho nên chắc hẳn người môn đệ này là Gioan.
Ngoài ra, truyền thống chưa bao giờ nghi ngờ việc thánh Gioan là tác giả sách Tin Mừng thứ tư. Thánh Irênê khẳng định: “Sau các môn đệ khác, đến lượt Gioan, người môn đệ Chúa Giêsu đã tựa đầu vào ngực ông, cũng đã viết sách Tin Mừng khi ở Ephêsô”. Còn thánh Clêmentê Alexandria (210) viết: “Khi thấy những người khác chỉ kể lại những sự kiện bên ngoài, thì Gioan, người sau cùng, được bạn hữu khuyến khích và được Thánh Thần linh ứng, đã viết Tin Mừng thiêng liêng”.
2. Lược đồ Tin Mừng Gioan
THÁNH THI MỞ ĐẦU (1,1-18)
PHẦN I : SÁCH CỦA NHỮNG DẤU LẠ (1,19 – 12,50)
I. Khi mạc khải khởi đầu (1,19-51)
1. Gioan tẩy giả làm chứng về bản thân (1,19-28)
2. Gioan tẩy giả làm chứng về Chúa Giêsu (1,29-34)
3. Các môn đệ của Gioan đến với Chúa Giêsu (1,35-51)
II. Từ Cana đến Cana (2,1 – 4,54)
1. Dấu lạ đầu tiên tại Cana : nước hoá thành rượu (2,1-12)
2. Thanh tẩy đền thờ (2,13-22)
3. Chúa Giêsu và Nicôđêmô (3,1-36)
4. Chúa Giêsu, người phụ nữ Samaria và dân Samaria (4,1-42)
5. Dấu lạ thứ hai tại Cana (4,43-54)
III. Chúa Giêsu và những ngày lễ lớn của người Do thái (5,1 – 10,42)
1. Chúa Giêsu và ngày sabát (5,1-47)
2. Chúa Giêsu trong dịp lễ Vượt qua : hoá bánh ra nhiều (6,1-15), đi trên biển (6,16-21), diễn từ về Bánh hằng sống (6, 22-71)
3. Chúa Giêsu trong dịp Lễ Lều (7,1 – 8,59) : Cảnh 1 (7,14-36), cảnh 2 (7,37-52), người phụ nữ ngoại tình (7,53-8,11), cảnh 3 (8,12-59)
4. Tiếp theo Lễ Lều (9,1-10,21) : người mù từ thưở mới sinh (9,1-41), Chúa Giêsu là mục tử nhân lành (10,1-21)
5. Chúa Giêsu trong dịp lễ Cung hiến (10,22-42)
IV. Chúa Giêsu đi đến Giờ của Ngài và vinh quang (11,1-12,50)
1. Phục sinh Lagiarô (11,1-44)
2. Chúa Giêsu bị lên án (11,45-57)
3. Những cảnh chuẩn bị : xức dầu tại Betania (12,1-11), Vào thành Giêrusalem (12,12-29), Giờ của Chúa (12,20-36), diễn từ cuối cùng (12,44-50)
PHẦN II. SÁCH VINH QUANG (13,1 – 20,31)
I. Bữa tiệc ly (13,1-30)
1. Dẫn nhập (13,1-3)
2. Rửa chân (13,4-20)
3. Loan báo sự phản bội (13,21-30)
II. Những diễn từ cuối cùng (13,31-17,26)
1. Diễn từ giã biệt lần I (14,1-31)
2. Diễn từ giã biệt lần II (15-16,33)
3. Lời cầu của Chúa Giêsu (17,1-26)
III. Bài tường thuật thương khó (18,1 – 19,42)
1. Bị bắt trong vườn Cây Dầu (18,1-11)
2. Tại nhà thượng tế Anna (18,12-27)
3. Trước toà Philatô (18,28-19,16)
4. Khổ hình thập giá (19,17-37)
5. Mai táng (19,38-42)
IV. Chúa Giêsu sống lại (20,1-31)
1. Những lần hiện ra (20,1-29) : Maria Madalena, Simon Phêrô và người môn đệ Chúa yêu (20,1-18), với các môn đệ nhưng thiếu Toma (20,19-23), với Toma (20,24-29)
2. Kết luận (20,30-31)
Lời bạt ở chương 21
Mẻ lưới bất thường (21,1-14)
Simon Phêrô và sứ mạng mục tử (21,15-23)
Lời phi lộ (21,24-25)
TIỆC CƯỚI CANA (2,1-12)
Đây là dấu lạ đầu tiên Chúa Giêsu làm (2,11). Vậy dấu lạ này có ý nghĩa gì? Chắc chắn ý nghĩa căn bản của dấu lạ là với Chúa Giêsu, thời đại Mêsia đã đến. Cái được biến đổi ở đây không chỉ đơn thuần là nước được sử dụng trong đời sống hằng ngày, nhưng là nước được dùng trong những nghi thức thanh tẩy thời Cựu Ước (2,6). Nước ấy không chỉ được biến đổi thành rượu chung chung mà là rượu hảo hạng và tràn trề (những sáu chum, mỗi chum chứa 80 hay 120 lít). Sự phong phú đó là hình ảnh thời đại mêsia (x. Amos 9,13-14; Joel 3,18). Việc biến đổi nước thời Cựu Ước thành rượu thời mêsia cho thấy bữa tiệc cưới không chỉ là tiệc cưới nhưng là hình ảnh bàn tiệc mêsia, và chú rể trong tiệc cưới này chính là Chúa Giêsu (x. 3,29).
Ở đây ta cũng có thể liên tưởng đến mầu nhiệm nhập thể, mầu nhiệm Thiên Chúa làm người để nâng con người lên. Trong cử hành phụng vụ Thánh Thể, khi linh mục đổ chút nước vào rượu, ngài thầm thĩ đọc lời nguyện: “Như chút nước này được hoà với rượu nho, xin cho nhân tính chúng con được hoà vào thần tính của Chúa.” Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã đảm nhận bản tính loài người và nâng bản tính đó lên tầm cao mới, làm cho con người được tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Điều đó không phải là kết quả của nỗ lực tự nhiên nhưng trước hết và trên hết là ân sủng của Thiên Chúa. Phần vụ của chúng ta là sẵn sàng đáp lại bằng lòng tin, mở rộng tâm hồn để đón nhận ân huệ Thiên Chúa ban như lời Mẹ Maria căn dặn các gia nhân trong tiệc cưới : “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (2,5).
Trình thuật này cũng thường được chọn đọc trong các thánh lễ hôn phối để giúp người Kitô hữu ý thức rằng Chúa Giêsu đã nâng hôn nhân lên thành bí tích, nghĩa là dấu chỉ diễn tả tình yêu giữa Đức Kitô và Gíao Hội, đồng thời ban ơn cho đôi vợ chồng để họ có thể sống tình yêu cao cả đó. Càng sống trong một thời đại mà đời sống gia đình bị đe doạ và đổ vỡ rất nhiều, các đôi vợ chồng công giáo càng cần phải làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa, và họ có thể làm được điều đó khi sống theo lời căn dặn của Mẹ Maria : “Người bảo gì, các anh cứ làm theo” (2,5).
Cuối cùng, Mẹ Maria xuất hiện trong trình thuật như người phụ nữ tinh tế và nhạy bén trước nỗi bối rối của gia đình chủ tiệc. Sự nhạy bén đó phát xuất từ tấm lòng chan chứa yêu thương của Mẹ, vì nhạy bén trước nhu cầu của người khác là nét tinh tế nhất của tình yêu (Jean Guitton). Hơn thế nữa, Mẹ còn tìm cách can thiệp để giúp gia đình đôi tân hôn thoát khỏi cảnh khó khăn. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, người tín hữu xác tín điều đó nên ở khắp nơi và trong mọi thời, họ chạy đến với Mẹ để xin Mẹ trợ giúp ủi an. Ước gì khi đến với Mẹ Maria, ta cũng học được nơi Mẹ sự nhạy bén của tình yêu, nhờ đó cuộc sống gia đình cũng như cộng đoàn sẽ gia tăng niềm vui và an bình.
NGƯỜI PHỤ NỮ XỨ SAMARI (4,1-42)
Sau trình thuật về tiệc cưới Cana, thánh Gioan kể về việc Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Giêrusalem ((2,13-22) và cuộc đối thoại của Chúa với Nicôđêmô (3,1-21). Những trình thuật này đều có mục đích giới thiệu sự mới mẻ mà Chúa Giêsu đem đến : rượu mới thời mêsia, đền thờ mới, sự sống mới trong nước và Thánh Thần. Trong trình thuật về người phụ nữ xứ Samari, thánh Gioan mô tả Chúa Giêsu như nguồn nước ban sự sống, và nói đến sự thờ phượng đích thực. Đây là một trình thuật được biên soạn rất công phu, có thể phân đoạn như sau để dễ thấy và dễ hiểu hơn :
Dẫn nhập (4,1-6) : Chúa Giêsu rời Giuđêa để đi Galilê; trên đường qua Samari, ngài
nghỉ ngơi bên bờ giếng.
Cuộc đối thoại thứ nhất (4,7-26) : giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ
– Nước hằng sống (câu 7-15) : từ nước giếng đến nước đem lại sự sống đời đời.
– Thờ phượng trong Thần khí và sự thật (câu 20-26)
Cuộc đối thoại thứ hai (4,31-38) : giữa Chúa Giêsu và các môn đệ
– Lương thực của Chúa Giêsu (câu 31-34) : Thánh ý của Đấng đã sai Thầy
– Mùa gặt (câu 35-38) : “Đồng lúa đã chín vàng…”
Kết luận (4,39-42) : niềm tin của dân Samari “Người thật là Đấng cứu độ trần gian”
Một vài ghi nhận để giúp hiểu bản văn dễ hơn:
Do hoàn cảnh lịch sử, giữa người Do thái và người Samari có mối quan hệ không tốt, nếu không nói là tồi tệ. Do đó người phụ nữ Samari rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu đến trò chuyện với chị, lại còn xin nước uống (4,6)!
Thông thường, thánh Gioan mô tả Chúa Giêsu bằng những từ ngữ đề cao thần tính của Chúa, nhưng ở đây, ngài lại mô tả Chúa Giêsu rất “người”: mỏi mệt, ngồi ngay bên bờ giếng (4,6). Cả người phụ nữ cũng được mô tả rất “đời” : chị đi kín nước vào giữa trưa (câu 6)! Các phụ nữ khác đã đi lấy nước từ sáng, còn chị này mãi đến trưa mới đi kín nước, chứng tỏ chị có lối sống không giống ai, có lẽ còn bận tiếp chuyện với các ông! Phần kế tiếp của câu truyện cho thấy chị sống khá buông thả. Thế nhưng chính người phụ nữ buông thả này, một khi gặp được Lời Chúa, đã trở thành người loan báo Tin Mừng cho cả thành. Lời Chúa có sức biến đổi lạ lùng!
Như đã được học, các sách Tin Mừng không chỉ đơn thuần là sách tiểu sử về Chúa Giêsu nhưng còn phản ánh kinh nghiệm sống đức tin của các cộng đoàn. Trình thuật này cũng phản ánh sứ vụ của Giáo Hội đem Tin Mừng đến cho dân Samari như được mô tả trong Cv 8,4-25.
Điều đáng quan tâm là dân Samari đã tin vào Chúa Giêsu không vì bất cứ dấu lạ nào nhưng chỉ vì sức mạnh của Lời: “Số người tin vì lời Đức Giêsu còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ : Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (câu 41-42).
Trình thuật này còn là bài học quý giá cho đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu, cách riêng trong mùa Chay. Chúa Giêsu đã dẫn đưa người phụ nữ Samari từ chỗ khát nước đến chỗ khám phá nỗi khát khao sâu xa hơn trong cuộc đời chị, nỗi khát khao mà chỉ một mình Chúa mới có thể lấp đầy. Cũng thế, trong mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta giữ chay không chỉ để chu toàn một vài lề luật hay để lập công với Chúa, nhưng ăn chay để khám phá cơn đói sâu xa hơn trong lòng ta, cơn đói mà chỉ một mình Chúa mới có thể lấp đầy. Vì thế, đây là thời gian thuận tiện để mỗi người nhìn lại lòng mình để khám phá nỗi khát khao : phải chăng chỉ là của cải vật chất? hay còn là tình yêu? Và còn là những gì sâu xa nhất? Ước gì trải nghiệm của thánh Augustino cũng trở thành trải nghiệm của mỗi chúng ta : “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.”
TIN MỪNG GIOAN (Chương 6-12)
—–o0o—–
HOÁ BÁNH RA NHIỀU (6,1-15)
Lễ Vượt qua là lễ bánh không men, vì thế ghi chú về lễ Vượt qua (câu 4) có mục đích chuẩn bị cho chúng ta hiểu về dấu lạ hoá bánh ra nhiều sắp xẩy ra. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng kể lại (Marco kể hai lần 6,31-34 và 8,1-10; Matthêu kể hai lần 14,13-21 và 15,32-38; Luca 9,10-17). Sự kiện đó cho thấy tầm quan trọng của trình thuật này trong đời sống Giáo Hội sơ khai. Thật vậy, những gì Chúa Giêsu đã làm khi hoá bánh ra nhiều trở thành chuẩn mực cho việc cử hành Thánh Thể trong các cộng đoàn. Trong trình thuật của Tin Mừng nhất lãm, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho… Các thừa tác viên cũng làm như thế khi cử hành Thánh Thể. Trình thuật của Gioan cũng mang tính nghi lễ như thế, nhưng ngài thêm một chi tiết vốn là nét đặc trưng của Kitô giáo : Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, và phân phát (6,11). Trong tiếng Hi lạp, từ mà ta dịch là tạ ơn là eucharisteo, cũng là từ được dùng để nói về Thánh Thể. Thánh Gioan còn nhắc lại ý nghĩa này ở 6,23: “Có những thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn.”
Thánh Gioan gọi phép lạ này là dấu lạ: “Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói…” (6,14). Dấu lạ này có mục đích làm cho mọi người khám phá ra Chúa Giêsu chính là Bánh ban sự sống, chủ đề sẽ được Gioan khai triển trong suốt chương 6. Phản ứng của dân chúng ở câu 14, “Hẳn ông này là vị tiên tri, Đấng phải đến thế gian”, nhắc nhớ đến vị tiên tri như Môsê (x. Đnl 18,15.18) mà người ta mong đợi sẽ xuất hiện vào thời cuối cùng. Như Môsê đã nuôi dân bằng manna trong sa mạc thì Chúa Giêsu cũng nuôi dân như thế.
Ghi nhận cuối cùng nên quan tâm là hai môn đệ được nêu tên trong trình thuật này là Philipphê và Anrê. Đây cũng là hai vị đã giới thiệu Nathanael và Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu (Ga 1,41.45). Sau này, cũng chính hai vị này trở thành tông đồ cho người Hi Lạp (12,20-22). Như thế, vai trò của hai vị tông đồ này được quan tâm đặc biệt trong Tin Mừng Gioan. Đồng thời, những ghi nhận trên cũng thoáng mở chiều kích truyền giáo của dấu lạ hoá bánh ra nhiều : Chúa Giêsu làm phép lạ không chỉ để thoả mãn cơn đói chóng qua của con người nhưng để giúp người ta nhận ra Ngài là Bánh hằng sống.
NGƯỜI MÙ TỪ THƯỞ MỚI SINH (9,1-41)
Trình thuật này được xây dựng rất công phu như một vở kịch sống động với 6 cảnh tuần tự diễn ra, với những cuộc đối thoại sâu sắc và những nhân vật đủ sắc màu. Điều quan trọng là cố gắng nắm bắt những giáo huấn mà thánh sử muốn trao gửi cho người đọc.
1. Ý nghĩa Phép Rửa
Điều chắc chắn là trình thuật này đã được vận dụng vào việc dạy giáo lý về Phép Rửa. Không phải vô tình mà thánh Gioan ghi chú rằng người mù đi rửa ở hồ Siloe, ( Siloe có nghĩa là người được sai đến). Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu chính là người được sai đến. Như thế, thánh Gioan không chỉ kể chuyện người mù mắt được chữa lành nhưng qua đó, ngài còn muốn nói đến việc chữa lành sự mù loà thiêng liêng. Việc chữa lành này được ban cho những ai chịu Phép Rửa : họ được rửa trong Đấng được sai đến, nghĩa là chính Chúa Giêsu (chịu Phép Rửa là dìm mình vào trong Chúa).
Ngoài ra, nên ghi nhận sự khai mở từng bước nơi người mù được chữa lành : lúc đầu anh chỉ nói đến một người tên là Giêsu (câu 11), sau đó anh gọi ngài là tiên tri (câu 17), rồi là người từ Thiên Chúa mà đến (câu 33), rồi là Con Người (câu 35) và đỉnh cao là anh sấp mình xuống trước mặt Chúa Giêsu, một cử chỉ thờ phượng dành cho Thiên Chúa (câu 38). Cũng vậy, sau khi đã lãnh nhận Phép Rửa, người tân tòng từng bước được dẫn sâu hơn vào hành trình đức tin, khám phá nội dung đức tin, sống đời thờ phượng và đạo đức theo chuẩn mực của Tin Mừng. Nhân cơ hội này, ta cần xem xét lại cách dạy giáo lý dự tòng trong cộng đoàn giáo xứ của mình. Phải chăng nhiều khi ta đã làm quá vội vã, chưa giúp người dự tòng hiểu biết, yêu mến Chúa và thực hành cho đúng theo Lời Chúa dạy?
2. Chúa Kitô là ánh sáng muôn dân
Về mặt văn chương, câu chuyện về người mù vừa hài hước vừa thâm thuý. Những người tự cho là mình sáng mắt, thấy rõ, thì hoá ra lại mù, và mù chẳng phải vì tai nạn do ai gây ra nhưng do chính mình muốn thế : “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘Chúng tôi thấy’ nên tội các ông vẫn còn” (câu 41). Ngược lại, kẻ mù loà nhưng dám liều mình làm theo lời Chúa Giêsu (câu 6) thì lại “thấy”. Cái thấy này ban đầu chỉ là thấy bên ngoài (sight) nhưng rồi được dẫn đến cái thấy bên trong (in-sight). Chúa Kitô chính là ánh sáng muôn dân để trong Ngài, chúng ta nhìn thấy ánh sáng. Có nhiều thái độ khiến ta không đón nhận được ánh sáng và cứ ở mãi trong cảnh mù loà : từ nỗi sợ hãi như cha mẹ của anh mù (câu 23) đến những thành kiến và tính toán của người Pharisêu và giới cầm quyền (câu 13-17). Cần khiêm tốn nhận diện chính mình trong những nhân vật đó để có thể mở mắt mở lòng đón nhận ánh sáng của Chúa.
3. Cộng đoàn của Gioan
Câu truyện về người mù còn phản ánh kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn Giáo Hội đương thời. Câu 22 ghi nhận rằng “Người Do thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô.” Câu 34 ghi nhận sau khi được chữa lành và đối chất với những người cầm quyền, anh mù bị trục xuất khỏi hội đường. Những ghi nhận này phản ánh sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa các Kitô hữu và người Do thái. Vào thời Chúa Giêsu, kể cả thời thánh Phaolô đi rao giảng Tin Mừng, mối quan hệ này chưa đến nỗi nặng nề. Tuy nhiên, tình hình ngày càng xấu đi, nhất là khi các Kitô hữu nhấn mạnh Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa. Có thể thấy điều đó khi trong lời cầu nguyện tại hội đường Do thái, có cả lời nguyền rủa những kẻ rối đạo như những tên Kitô hữu! Không có Kitô hữu gốc Do thái nào có thể chấp nhận lời cầu nguyện như thế, và đó là lý do họ bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Như thế, ở bất cứ thời đại nào, sống niềm tin vào Chúa Giêsu vẫn luôn là một thách đố. Nhưng chính những thách đố ấy có thể thúc bách ta dấn thân hơn và sống niềm tin sâu sắc hơn như anh mù trong câu truyện: “Anh nói : Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (9,38).
PHỤC SINH LADARÔ (11,1-54)
Chúa Giêsu vừa là sự sống vừa là sự sống lại (11,25) và phép lạ phục sinh Ladarô chính là dấu chỉ cho lời khẳng định đó.
1. Matta và Maria
Không chỉ trong Tin Mừng Gioan, hai chị em Matta và Maria còn được nhắc đến trong Luca 10,38-42, và cả hai tác giả đều cho thấy tính cách của mỗi người. Matta xuất hiện như một người năng động nên trong Luca 10,40, chị rất bận rộn trong chuyện đón tiếp Chúa Giêsu, và trong Gioan 11,20, chị cũng là người mau mắn ra gặp Chúa Giêsu trước. Còn Maria thì ngồi ở nhà, sau đó thì dưới chân Chúa (Ga 11,20. 32), cũng giống như Maria trong Luca 10,39 ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe lời Người.
2. Ladarô
Có điều lạ là Tin Mừng Luca không nói gì đến người em trai là Ladarô. Trong Luca có dụ ngôn về Ladarô nhưng Ladarô ở đây là một người nghèo, suốt đời khổ sở, cuối cùng được ở trong lòng Abraham. Dụ ngôn này kết thúc bằng lời cảnh cáo rất đặc biệt của Chúa Giêsu : “Nếu chúng không nghe theo Môsê và các tiên tri, thì dù có kẻ chết sống lại, chúng cũng không nghe đâu” (Lc 16,31). Nghĩa là cũng nói đến chuyện kẻ chết sống lại. Vậy có sự trùng hợp nào chăng giữa hai nhân vật Ladarô? Phải chăng thánh Gioan đã biến người hành khất trong Tin Mừng Luca thành người em trong gia đình của Matta và Maria? Không phải thế, những gì thánh Gioan kể lại đều là người thật việc thật, ở đây chỉ muốn ghi nhận sự gần gũi giữa hai bản văn.
3. Sự hồi sinh của Ladarô và sự phục sinh của Chúa Giêsu
Nếu so sánh trình thuật về sự hồi sinh Ladarô và trình thuật về sự phục sinh của Chúa (chương 20), có nhiều nét song đối với nhau :
– Maria than khóc ở gần mộ (11,31 và 20,11)
– Ngôi một bị tảng đá che kín (11,38 và 20,1)
– Khăn liệm và khăn che mặt (11,16 và 20,6-7)
– Vai trò đặc biệt của Tôma (11,16 và 20,24-28)
Như thế, thánh Gioan viết trình thuật hồi sinh Ladarô như để tiên báo về sự phục sinh của Chúa. Tuy nhiên sự phục sinh của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với sự hồi sinh Ladarô:
– Ladarô được hồi sinh là trở lại với đời sống cũ để rồi sớm muộn cũng sẽ chết, còn Chúa Giêsu phục sinh là bước vào sự sống vĩnh hằng, trở thành Đấng hằng sống, sự chết không còn làm chủ được Người nữa.
– Ladarô được hồi sinh với thân xác cũ, còn Chúa Giêsu phục sinh với thân xác vinh hiển, thân xác không còn bị chi phối bởi những điều kiện không gian và thời gian như các trình thuật Thánh Kinh cho biết.
4. Giáo huấn
Câu 25-26 là trọng tâm của cả trình thuật : Chúa Giêsu là sự sống và sự sống lại của tất cả những ai giống như Matta, dám tin rằng Người là “Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa” (câu 27 và 31). Ai có đức tin thì cho dù phải chết cũng sẽ sống. Ai sống mà tin thì sẽ không bao giờ phải chết.
Lời của thượng tế Caipha được thánh Gioan giải thích như lời tiên tri mà chính ông ta không ngờ: “Chúa Giêsu phải chết cho dân, và không chỉ cho dân mà thôi nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa tản mác khắp nơi thành một mối” (câu 51-52). Lời này cũng trình bày thần học của Gioan về ơn cứu độ.
An sâu trong trình thuật này là chân lý cao cả về cuộc Vượt qua của Chúa Giêsu : Người hi sinh mạng sống mình để ban sự sống cho ta. Vì yêu thương Ladarô, Chúa Giêsu đi Bêtania để làm cho ông sống lại; nhưng khi làm như thế, Người phải chấp nhận hiểm nguy (x. các câu 7-8, 16, 50-53). Như đã nói, so sánh trình thuật phục sinh Ladarô và trình thuật về sự phục sinh của Chúa ở chương 20, ta sẽ thấy nhiều điểm tương đồng. Cả hai trình thuật đều nói đến Maria khóc lóc ở mồ (11,31 và 20,11), nấm mồ với tảng đá chắn bên ngoài (11,38 và 20,1), khăn liệm và khăn che đầu (11,44 và 20,6-7), vai trò đặc biệt của Tôma (11,16 và 20,24-28). Dường như thánh sử Gioan viết trình thuật này để báo trước cuộc phục sinh của Chúa. Vì thế, chương 11 chuẩn bị cho ta đọc chương 20.
Chúng ta có thể thắc mắc về sự trì hoãn của Chúa Giêsu (11, 4-7). Tại sao Chúa không lên đường ngay để ngăn cho Ladarô khỏi chết mà lại đợi ông ấy chết rồi mới ra tay? Thánh sử Gioan đã nhìn biến cố từ quan điểm của Thiên Chúa hơn là quan điểm của con người, và điều này được diễn tả qua lời của Chúa Giêsu: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (11,4). Dấu lạ đã bày tỏ vinh quang Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa nơi Người Con chí ái của Ngài. Dấu lạ là một cuộc thần hiện. Thiên Chúa, Đấng là Tình yêu chữa lành mạc khải chính mình qua công trình của Người Con. Như thế, khi bước theo Chúa Giêsu, chúng ta tin tưởng chắc chắn sẽ đạt đến sự sống trọn vẹn.
TIN MỪNG GIOAN (Chương 13-17)
—–o0o—–
RỬA CHÂN CHO CÁC MÔN ĐỆ (13,1-30)
Với chương 13, chúng ta chuyển từ Sách của những dấu lạ sang Sách vinh quang, nghĩa là nói đến sự chết và sự phục sinh của Chúa. Sách này gồm những diễn từ ly biệt (chương 13-17), trình thuật về cuộc thương khó (chương 18-19), sự phục sinh (chương 20) và phần kết (chương 21). Ở đây chỉ tập trung vào trình thuật rửa chân (13,1-30).
1. Bài học luân lý
Một lần nữa, tác giả nói đến lễ Vượt qua nhưng đây sẽ là cuộc vượt qua của chính Chúa Giêsu, từ thế gian mà về cùng Cha (13,1.3). Trong trình thuật này, Chúa Giêsu vốn là tôi tớ của Thiên Chúa nay lại trở thành tôi tớ loài người. Giờ của Người đã đến và Người yêu thương những kẻ thuộc về Người đến cùng (13,1), đến cùng thời gian và đến cùng sức lực. Vì chính Chúa Giêsu đã làm nhiệm vụ người tôi tớ nên chúng ta, các môn đệ của Người, cũng được mời gọi rửa chân cho nhau: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (câu 15). Bài học về phục vụ đã rất rõ ràng và đầy sức thuyết phục.
2. Ý nghĩa về cái chết của Chúa Giêsu
Tuy nhiên, trình thuật này còn chất chứa những giáo huấn sâu xa hơn nữa. Khi Phêrô phản đối, không chấp nhận để Thầy rửa chân cho (cũng như ông đã phản đối lời loan báo về cuộc thương khó của Chúa trong Mc 8,32), Chúa Giêsu đã cho các môn đệ thấy việc được rửa chân quan trọng thế nào, đến độ nếu không chấp nhận để Chúa rửa chân thì không được chung phần với Chúa (câu 8). Câu này cho thấy trình thuật rửa chân không chỉ hàm chứa một bài học luân lý nhưng còn nói lên nhiều giáo huấn quan trọng :
– Ám chỉ cái chết cứu độ của Chúa Giêsu trong tư cách người tôi tớ. Nếu so sánh trình thuật rửa chân với thánh thi trong thư Philip 2,5-12, ta sẽ hiểu việc rửa chân ở đây nói đến mầu nhiệm huỷ mình ra không (kenosis) của Chúa Giêsu, cũng là mầu nhiệm tôn vinh.
– Hơn thế nữa, trình thuật này còn là giáo huấn về bí tích thánh tẩy. Lãnh nhận bí tích thánh tẩy là được dự phần vào cái chết cứu độ của Chúa, được sạch và không cần phải rửa nữa. Thánh Phaolô diễn tả cách khác là được dìm vào trong sự chết của Chúa để được sống lại với Người. Hiểu như thế, lãnh nhận bí tích thánh tẩy không chỉ là làm một nghi thức mà là đón nhận một lối sống, lối sống yêu thương và phục vụ như Chúa Giêsu (câu 15).
LỜI NGUYỆN LINH MỤC (chương 17)
Chương 17 thường được gọi là Lời nguyện linh mục vì ở đây, Chúa Giêsu cầu nguyện trực tiếp với Chúa Cha cho các tín hữu hiện tại cũng như tương lai. Lời kinh chuyển cầu này nói lên chức năng tư tế, đồng thời sự “thánh hiến” mà Chúa Giêsu nói đến ở câu 19 cũng liên hệ đến vai trò tư tế dâng hy tế.
1. Phân đoạn và nội dung
Chúa Cha và Chúa Con (câu 1-5)
Trong 5 câu này, Chúa Giêsu nói trực tiếp với Chúa Cha. Giờ đã đến, giờ tôn vinh, nghĩa là giờ biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa. Sự sống đời đời chính là nhận biết sự hiện diện này, “nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô”. Chúa Giêsu đã biểu lộ sự hiện diện của Chúa Cha, đã hoàn tất công việc được trao phó. Bản chất đích thực của Thiên Chúa là Tình Yêu sắp được bày tỏ nơi cái chết hy tế của Chúa Giêsu.
Chúa Con và các môn đệ (câu 6-19)
Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ điều gì? Ngài xin Chúa Cha cho họ :
– được Chúa Cha bảo vệ: “Xin gìn giữ chúng trong Danh Cha mà Cha đã ban cho con” (câu 11)
– được hiệp nhất trên nền tảng và theo khuôn mẫu kết hợp sâu xa giữa Cha và Con: “để chúng nên một như chúng ta là một” (câu 11)
– để những đau khổ của họ được biến thành niềm vui: “để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con” (câu 13)
– được gìn giữ khỏi ác thần: “xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (câu 15)
– để họ được thánh hiến, hoàn toàn hiến thân phục vụ Chúa: “xin thánh hiến chúng trong sự thật” (câu 17)
Chúa Con và các môn đệ tương lai (câu 20-26)
Đối với các môn đệ trong tương lai, ân huệ duy nhất mà Chúa Giêsu khẩn nài là ơn hiệp nhất: “để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (câu 21-23). Chỉ với chứng tá hiệp nhất này, sứ vụ của Giáo hội mới có kết quả, bởi vì chỉ khi các môn đệ hiệp nhất yêu thương nhau thì thế gian mới tin, mới nhận biết rằng Chúa Cha đã sai Chúa Giêsu đến trong thế gian, và gặp được nơi các môn đệ chính tình yêu của Chúa Cha.
2. Những chủ đề chính
Chỉ trong một lời nguyện, Chúa Giêsu kêu lên “abba” (cha ơi) những 6 lần. Tên gọi này diễn tả sự kết hợp sâu xa và thân tình giữa Chúa Giêsu và Cha của Người.
Hiệp nhất là ân huệ được nhấn mạnh đặc biệt: hiệp nhất giữa các môn đệ trong hiện tại cũng như tương lai, sự hiệp nhất theo khuôn mẫu hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con, sự hiệp nhất bắt nguồn từ tình yêu của Ba Ngôi.
Tình yêu là từ ngữ thường xuyên được nhắc đến: tình yêu của Chúa Cha với Chúa Giêsu (câu 23-24), với các môn đệ (câu 23). Mạc khải lớn nhất của Tin Mừng chính là Tình yêu của Thiên Chúa. Như thế, Giáo hội phải là một cộng đồng tình yêu, dấu chỉ sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa thế gian.
“Thế gian” là từ ngữ được sử dụng 17 lần trong chương này. Theo nghĩa xấu, thế gian là nơi chốn của bất tín, hận thù, căm ghét, hoàn toàn ngược lại với tình yêu là đòi hỏi mà các Kitô hữu phải sống. Giuđa (được nhắc đến trong câu 12) là minh hoạ cụ thể về sự khước từ ánh sáng và sự sống để nộp mình cho đêm tối và chết chóc. Người môn đệ Chúa sống trong thế giới vật lý này nhưng không chấp nhận sống theo não trạng vô đạo của nó. Câu 21 và 23 cho thấy Chúa Giêsu tin tưởng rằng nhờ chứng tá hiệp nhất yêu thương của các môn đệ, thế gian sẽ tin và nhận biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Cha sai đến.
TIN MỪNG GIOAN (Chương 18-21)
—–o0o—–
CUỘC THƯƠNG KHÓ (18,1 – 19,42)
Rõ ràng chương 20 đã là phần kết sách Tin Mừng thứ tư, cho nên các học giả cho rằng chương 21 là phần được thêm vào sau này. Có thể là do một môn đệ thân tín của thánh Gioan. Tuy nhiên phần thêm vào này có giá trị quan trọng. Nếu 20 chương trước tập trung vào Chúa Giêsu, Đấng Mặc khải và Đấng Cứu độ, thì chương 21 là một bước tiếp nối từ Chúa Giêsu đến Giáo Hội của Người. Để Chúa Giêsu có thể tiếp tục công trình cứu độ của Người thì cần có những trung gian : Tiệc Thánh Thể ở đó Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện với Giáo Hội và trong Giáo Hội, nhiệm vụ mục tử của Phêrô và những người kế nhiệm, vai trò của người môn đệ Chúa yêu cũng như của Giáo Hội.
—–o0o—–
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu Tin mừng theo thánh Gio-an
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Sáng Thế
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Xuất Hành
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Lê-vi
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Đệ Nhị Luật
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Giô-sua
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Thủ Lãnh
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Bà Rút
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách Samuel quyển thứ 1 và 2
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách ngôn sứ Amos
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu sách ngôn sứ Hô-sê
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu Tin mừng theo thánh Lu-ca
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu Thư thứ nhất và thứ hai của Thánh Phêrô
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu Tin mừng theo thánh Mát-thêu
- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm: Tìm hiểu Tin mừng theo thánh Máccô