Thần Đô Huyền Nhiệm – Hướng dẫn Giáo đoàn đầu tiên

Mục Lục

Phần Thứ Ba: CUỘC ĐỜI CÔNG KHAI

 

40. HƯỚNG DẪN GIÁO ĐOÀN ĐẦU TIÊN

Toàn dân Giêrusalem đều xúc động trước những việc lạ xảy ra ở nhà Tiệc ly. Họ ùn ùn kéo tới với một số rất đông những người ngoại quốc từ khắp các dân lân cận Palestina. Đầy lửa nhiệt thành thiêu đốt, các Tông đồ xin Mẹ Maria cho phép ra giảng trong hoàn cảnh đặc biệt ấy, Mẹ Maria sấp mình xuống đất, hết sức sốt sáng cầu xin Chúa cho mọi người được ơn trở lại. Mẹ cũng sai rất nhiều thiên thần hầu cận đem ơn soi sáng của Mẹ giúp cho cả các Tông đồ giảng thuyết, cả những người nghe giảng.

Kết quả thật quá lạ lùng. Các Tông đồ chỉ giảng bằng tiếng Do Thái, thế mà thính giả ai cũng nghe ra tiếng nước mình. Phép lạ bất ngờ ấy và sự can đảm của các Tông đồ trước đó vẫn yếu hèn, nhất là hiệu năng ân sủng, đã kích động họ. Nhiều người, nhất là những người từ trước vẫn ủng hộ Chúa Giêsu, đều chan hoà nước mắt thống hối, sốt sắng xin gia nhập Giáo hội mới. Nhưng cũng có những người không tin, nổi giận với các Tông Đồ, coi các vị là bọn lừa bịp, bọn say rượu. Trong bọn những người chỉ trích này, có nhiều kẻ đã bị ngã gục lúc Chúa Thánh Linh hiện xuống, đáng lẽ khi được chỗi dậy, họ phải tin và sám hối mới phải, nhưng oái oam thay, họ lại trở nên thù địch hơn, ngoan cố hơn.

Trước những lời thoá mạ ấy, thánh Phêrô trả lời họ cho đủ điều, rồi ông tập họp một phần lớn những con chiên mới của Chúa Giêsu lại, đem vào giới thiệu với Mẹ Maria, dầu Mẹ đã biết tất cả những gì vừa xảy ra. Ông nói:”Thưa anh em, đây là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Tất cả anh em hãy nhận Mẹ là Mẹ, làm Đấng trung gian, Đấng bảo vệ anh em”. Mẹ Maria vừa hân hoan, vừa dịu dàng thánh thiện và từ ái đón tiếp họ. Từ khi được lên trời ngự bên hữu Con Mẹ, Mẹ được củng cố và tăng thêm đặc ân thông ban những ơn trọng đại bề trong cho những ai tôn kính nhìn nhận Mẹ làm Mẹ, nên các tín hữu ấy nghiệm thấy hiệu quả đó ngay. Họ hết sức cảm động phủ phục dưới chân Người Mẹ mới của họ, xin Mẹ ban phép lành và kính cẩn hôn tay Mẹ. Nhưng Mẹ từ chối không dám, vì lúc đó các Tông đồ có mặt ở đấy, Mẹ bảo họ xin các ông nhân danh Chúa Giêsu chúc lành cho. Thánh Phêrô thưa với Mẹ: “Kính thưa Mẹ, xin Mẹ đừng từ chối các tín hữu này những điều họ xin nài vì lòng hiếu thảo, để linh hồn họ được an ủi”. Bấy giờ Mẹ mới khiêm nhượng vâng lời vị nguyên thủ Giáo hội mà chúc lành cho họ. Theo lời Thánh Phêrô để đạt những nguyện vọng của những dự tòng đó, Mẹ Maria còn nói đôi lời khích lệ họ rằng: “Các con rất yêu dấu trong Chúa chúng ta, các con hãy cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa vì đã ban cho các con được đức tin. Các con hãy vững vàng can đảm tuyên xưng đức tin ấy, bằng cách vâng phục các Tông đồ của Con Mẹ. Con Mẹ đã lập phép thanh tẩy để ban cho các con được ấn tích làm con Thiên Chúa. Mẹ xin đem mình làm nữ tỳ các con, vì Cha đầy khoan dung đã ban cho các con được ân sủng ở đời này và đời sau sẽ được vui hưởng dung nhan Người đời đời”.

Những dự tòng nhiệt tâm ấy có một quan niệm rất cao cả về Mẹ Maria. Một lần nữa, họ xin Mẹ ban phép lành rồi ra về với một con người hoàn toàn đổi mới. Trong tuần tám ngày sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các Tông đồ cứ tiếp tục nói tiếng mọi nước, làm nhiều phép lạ mà khuyên dụ nhiều người trở lại. Cả các môn đệ và các phụ nữ đã lãnh nhận lửa Thánh Linh trong nhà tiệc ly cũng làm được những sự lạ như vậy. Thành phố Giêrusalem nhôn nhao lên, đâu đâu người ta cũng nghe nói đến những việc lạ lùng ấy.

Tiếng đồn về những việc lạ đó lan truyền cả ra ngoài thành. Nhiều người đã vào thành chứng kiến, lúc trở về không những họ được ơn lạ chữa lành bệnh phần xác, mà lành bệnh cả phần hồn là được đức tin vào Phúc âm. Số tín hữu mỗi ngày một tăng thêm lên. Đức tin của họ thật sống động, và đức mến thật nhiệt thành: theo gương Thầy Chí Thánh, họ muốn sống một đời trong sạch, đơn giản, khiêm nhượng và cầu nguyện, chỉ lo đến phần rỗi đời đời thôi. Vì mọi người đều được cùng chung hưởng của thiêng liêng, họ nghĩ của cải vật chất cũng phải để dùng chung, nên họ đua nhau đem tài sản mình đến làm của chung cho mọi người đều hưởng dụng. Giáo hội lúc khởi đầu thật hạnh phúc. Một nguồn thác vui tươi thánh thiện tưới cho địa đường mới này nên phong phú, giữa vườn vươn lên một cây hằng sống, đó là Mẹ Maria.

Mẹ thật ân cần hoạt động. Không thể kể ra đây được những việc lạ lùng Mẹ làm cho Giáo hội sơ khai. Không bao giờ Mẹ bỏ mất một cơ hội làm lành nào, dầu chung dầu riêng, hoặc cầu xin Chúa Giêsu, Đấng bao giờ cũng nghe lời Mẹ, hoặc luôn luôn khích lệ và ban ân sủng cho tín hữu nhiều cách, vì Mẹ là Đấng giữ kho ban ân sủng. Thế nên, trong những năm đầu hạnh phúc ấy, số người bị trầm luân tương đối ít. Không một người tân tòng nào bị Mẹ quên lãng. Mẹ luôn nhớ đến mọi người và tiếp đón từng người rất niềm nở. Biết rõ nhu cầu của họ, nên Mẹ tuỳ người mà cung cấp phương dược. Ngoài ra, còn có nhiều người đến cởi mở tâm hồn với Mẹ. Rất nhiều người đã được Mẹ dậy dỗ và đều được cứu rỗi cả. Để cưỡng bách Con Mẹ ban cho họ ơn ấy, Mẹ thưa với Chúa: “Ôi Con là Chúa đáng tôn thờ, Con biết Mẹ trở lại thế gian là để làm Mẹ những người con của Con. Họ chạy đến với Mẹ cả đây, nếu họ phải hư mất ai an ủi Mẹ được? Xin cho họ chớ nên vô phúc vì đã cậy trông vào một con sâu đất nghèo nàn là Mẹ, để xin Con xử khoan dung với họ”. Chúa Giêsu trả lời cho Mẹ ngay là Chúa đã chấp nhận lời Mẹ xin. Ngày nay, Mẹ cũng vẫn còn xin mọi ơn cho những ai cầu xin Mẹ như vậy. Có thể nào mà chúa Giêsu lại chối từ Mẹ chút ơn ấy, sau khi đã tặng Mẹ toàn thể Hữu Thể Thiên Chúa của Ngài, để mặc lấy Nhân Tính trong lòng Mẹ.

Tất cả các giáo dân mới bấy giờ đều đầy tình tri ân Mẹ, và phần đông, nhất là nữ giới, đã dâng kính Mẹ những đồ vật quý giá; nhưng Mẹ đều không nhận vật nào. Nếu có trường hợp nào thấy là nên nhận, Mẹ soi lòng cho những người dâng cúng ấy đem dâng tặng vật cho các vị Tông đồ, để giúp cho những người nghèo túng. Nhưng Mẹ cũng tỏ lòng biết ơn họ y như là Mẹ đã nhận của họ dâng cho Mẹ vậy. Mẹ hay săn sóc đến các bệnh nhân và người nghèo thật. Người nghèo, Mẹ nhờ trung gian thánh Gioan; còn bệnh nhân chính Mẹ săn sóc chữa lành bệnh tật họ. Các Tông đồ và các môn đệ suốt ngày đi giảng Tin Mừng, cũng được Mẹ săn sóc cách riêng hơn nữa. Chính Mẹ đã dọn bữa cho các ngài; ai có chức linh mục, Mẹ còn quỳ gối hầu bàn, sau khi đã hạ mình rất khiêm nhượng hôn kính tay họ. Lòng tôn kính ấy, Mẹ đặc biệt tỏ ra với các Tông đồ là những người đã được củng cố trong ân sủng, và đôi khi Mẹ thấy có ánh sáng bao bọc các vị.

Càng tiếp tục giảng thuyết và làm phép lạ, các Tông đồ càng được vui mừng vì chinh phục được nhiều tín hữu mới. Các vị dậy giáo lý cho tất cả để chuẩn bị chịu phép rửa, mặc dầu chưa định hẳn ngày nào. Theo Thánh Luca, ngày lễ Chúa Thánh Thần xuống đã tới năm nghìn người theo đạo mới. Hôm đó, Mẹ Maria giới thiệu với Thiên Chúa đoàn chiên nhỏ của Chúa Giêsu Kitô. Mẹ thưa lên: “Lạy Thiên Chúa hằng hữu, con sâu đất yếu đuối này xin ca tụng Chúa vì Chúa đã yêu thương loài người và ban đức tin vào Chúa cho họ. Con nài xin Chúa soi sáng các Tông đồ và gợi cho các ông những gì thích hợp nhất với việc cai trị và mở rộng Giáo hội Chúa”. Thiên Chúa đoan kết với Mẹ rằng: Ngài sẵn sàng nhận tất cả những gì Mẹ xin, nên Mẹ tiếp tục thưa lên: “Lạy Chúa là Chúa con, Chúa khôn ngoan vô cùng đã biết rõ tất cả khát vọng và than van của con, con chỉ muốn, chỉ tìm, chỉ xin những gì đẹp lòng Chúa nhất và có thể làm vinh quang Chúa nhất, con xin dâng Chúa những người con mới này, những người con được Chúa dùng mở rộng Giáo hội Chúa trong thời gian rất ngắn. Con ước mong cho họ được chịu phép thanh tẩy, vì họ đã được dậy dỗ đủ rồi”. Thiên Chúa trả lời: “Hỡi con rất yêu dấu, Cha sẽ thi hành lời con xin, các Tông đồ, cùng với Phêrô và Gioan, sẽ đến thưa với con. Con hãy hợp ý với họ để thi hành ước muốn của con”.

Cùng lúc đó, các Tông đồ đến gặp Mẹ, Mẹ tiếp đón các ngài cách kính trọng như mọi khi, Mẹ quỳ gối trước mặt và xin các ngài ban phép lành. Thánh Phêrô chúc lành cho Mẹ rồi thưa: ” Các dự tòng đều đã được biết về các mầu nhiện của đạo Chúa. Đã đến lúc ban phép rửa cho họ được ấn tích làm con Thiên Chúa? Vậy xin Mẹ ban lệnh làm những gì Mẹ biết là đẹp lòng Chúa”. Mẹ vốn rất khôn ngoan nên thưa lại: “Con là nguyên thủ Giáo hội, là đại diện Chúa Giêsu. Chúa sẽ chấp nhận điều con quyết định nhân danh Ngài. Ý Mẹ cũng là ý Ngài với ý con”.

Theo câu trả lời đó, thánh Phêrô định ngày hôm sau (trùng với lễ Chúa Ba Ngôi sau này), sẽ làm phép rửa cho dự tòng. Mẹ và các Tông đồ khác đều đồng ý với quyết định đó. Có mấy vị trong nhóm đưa ra ý kiến là phải rửa bằng phép rửa của Gioan Thuỷ Tẩy trước. Nhưng các vị khác nói: “Phép rửa của Chúa Giêsu đã bãi bỏ phép rửa của Tiền Sứ Ngài rồi, chỉ làm phép rửa của Chúa thôi. Thánh Phêrô và thánh Gioan ưng theo ý kiến sau và Đức Maria Mẹ Giáo hội cũng xác nhận. Về chất liệu và mô thể của phép rửa, không có ai hoài nghi điều gì, vì như sách Tông Đồ Công Vụ nói, các Tông đồ đã rửa nhân danh Chúa Giêsu, để phân biệt với phép rửa của Gioan Thuỷ Tẩy.

Trước khi bế mạc phiên nhóm ấy, thánh Phêrô đưa ra trước hội nghị điều quan trọng này: “Anh em đã biết: Thầy chúng ta dậy phải sống nghèo, và căn cứ vào cái chết của Giuđa, chúng ta cũng đã thấy: sự lưu luyến của cải đời này thật nguy hiểm thế nào rồi. Vì thế, điều quan trọng là chúng ta đừng có một cái gì, và cả đừng đụng tiền bạc nữa. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nghĩ đến việc phân phát của bố thí và chia của cải người ta dâng cho Giáo hội, nên cần phải có một quy luật”. Nhiều kế hoặch bấy giờ được đề ra, nhưng hội nghị không ưng kế hoạch nào cả. Mẹ Maria cứ lắng lặng khiêm nhường lắng nghe, không biết giải quyết ra sao, thánh Phêrô và thánh Gioan mới xin Mẹ nói lên thế nào là đẹp lòng Chúa nhất.

Mẹ vâng lời ngay và nói: “Các con Mẹ, trong suốt cuộc đời Ngài, Chúa Giêsu đã không hề động đến tiền bạc, và không hề nhận một tặng vật nào đáng giá cả. Nhiều lần, Ngài nói với Mẹ: Một trong những mục đích cao cả của việc Ngài giáng trần là để nâng cao sự nghèo khó lên để người ta khỏi khinh chê nó. Vì thế, chúng ta phải tôn trọng đức nghèo, thực thi đức nghèo: vì đức nghèo càng lớn lao trong Giáo hội, Giáo hội càng thánh thiện. Để đừng ai trong chúng ta liều mình rơi vào tật hà tiện. Vậy xin uỷ cho sáu hay bảy người nhân đức vững vàng, nhiệm vụ tiếp thu tặng vật tín hữu dâng cúng. Mọi của dâng cúng ấy chỉ nên gọi bằng một tên là của bố thí, dùng cho người nghèo khó, bệnh tật, và cho mọi người, không ai còn chiếm quyền riêng tư về một vật nhỏ mọn nào nữa. Tài vật người ta dâng không đủ dùng, những ai giữ nhiệm vụ phân chia, hãy nhân danh Chúa mà đi xin. Đời sống chúng ta phải lệ thuộc vào ơn Chúa Quan phòng, chứ không phải tuỳ vào sự lo lắng thu tích của cải, viện cớ là để nuôi sống chúng ta”.

Toàn thể hội nghị hoan nghênh ý kiến của Mẹ Maria và đem thi hành lập tức.

Hôm sau, tất cả các tín hữu cùng tề tựu, dự thánh tẩy cho các tân tòng. Thánh Phêrô giảng một bài trước khi ban phép rửa. Bài huấn từ đó đốt nóng thêm nhiệt tâm cho các tân tòng, vừa vì họ đã chuẩn bị rất chu đáo, vừa vì lời của thánh Phêrô sốt sắng nảy lửa, và vừa vì Chúa ban ân sủng xuống tràn đầy. Lễ nghi phép rửa đã được cử hành rất long trọng và trật tự hoàn toàn tại nhà tiệc ly: các tân tòng vào một cửa chịu rửa, rồi đi ra một cửa khác, có các môn đệ và tín hữu hướng dẫn. Mẹ Maria rút lui vào một góc nhà Tiệc ly, từ đó Mẹ thấy được tất cả sự việc diễn ra, Mẹ đọc nhiều thánh ca cầu nguyện cho mọi người, Mẹ ngất ngây khi nhìn thấy các hiệu quả của phép rửa nơi mỗi người: linh hồn họ ngời sáng, trong sạch vẻ huy hoàng thần linh. Những người tham dự cũng thấy một ánh sáng từ trời dọi xuống trên mỗi người vừa chịu thánh tẩy. Thiên Chúa đã muốn dùng dấu lạ ấy, để tỏ cho mọi người biết phép thánh tẩy cao trọng chừng nào.

LỜI MẸ HUẤN DỤ

Hỡi con, những biến cố con vừa kể lại chứa nhiều bí mật liên hệ đến mầu nhiệm ơn tiền định. Ơn Cứu Chuộc của Con Chí Thánh Mẹ đã rất dư tràn, và càng dư tràn hơn nữa để cứu rỗi tất cả những người đợi chờ các Tông đồ giảng lần thứ nhất. Ngoài ơn bề ngoài, họ còn được những ơn soi sáng bề trong, thúc đẩy họ nhận biết và chấp nhận chân lý.

Dầu vậy, con vẫn còn ngạc nhiên vì cả dân số thành Giêrusalem đông đảo như thế mà chỉ có ba nghìn người trở lại. Nhưng con sẽ còn phải ngạc nhiện hơn nữa, nếu con nhớ rằng: ngày nay đã có biết bao nhiêu phương tiện để thánh hoá mà số người trở lại còn ít hơn nữa. Mọi nết hư đều ngập tràn một cách trâng tráo, không còn kính sợ gì Thiên Chúa nữa. Đã hư đốn đến như thế, loài người còn có thể viện ra lẽ nhỏ mọn nào, để phàn nàn với Chúa Quan phòng , Đấng hằng ban cho hết mọi người những cứu trợ cần thiết, để được cứu rỗi nữa? Những kẻ ngoan cố gạt bỏ những cứu trợ ấy, hoặc nhắm mắt bưng tai cho khỏi thấy chân lý để rồi cứ phụng thờ ma quỷ, còn có thể biện hộ vào đâu? Tình thương của Thiên Chúa đã và sẽ không bao giờ thiếu hụt cho ai sống xứng đáng để lãnh nhận.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *