Thần Đô Huyền Nhiệm – Đồi Can-vê loang máu

Mục Lục

Phần Thứ Hai: CUỘC ĐỜI CÔNG KHAI

 

36. ĐỒI CAN-VÊ LOANG MÁU

Sau khi Thánh Giá đã được dựng lên trên đồi Can-vê, Chúa Giêsu âm thầm thưa lên với Cha của Ngài những lời sau đây, trước khi nói lên bảy lời từ Thánh Giá mà Phúc Âm đã thuật lại: “Lạy Cha, từ Thánh Giá Con đang nằm đây, Con tôn vinh Cha vì đã nâng Nhân Tính của Con lên chức phẩm tối cao là làm Đấng Cha tấn phong, ban cho toàn quyền thống trị mọi thụ tạo, cả trong phạm vi tự nhiên, cả trong phạm vi ân sủng. Chính vì nhờ có Thánh Giá, mà Con hoàn thành công cuộc Cứu Chuộc loài người, nên Con xin cho Thánh Giá nên toà án công chính và nhân hậu của Chúng Ta, vừa đối với những kẻ bị luận phạt vì ngoan cố nổi loạn nên chịu hoả ngục, vừa đối với những người được tuyển chọn đã trung thành với lề luật của Con mà xứng đáng hưởng gia nghiệp Con lập. Đấng Chân Phúc trên hết là chính Mẹ rất trong sạch của Con, Con đặt Người làm đấng Thừa Kế phổ quát toàn thể sản nghiệp tự nhiên, ân sủng và vinh quang thuộc về Con. Con đặt Người làm chủ tuyệt đối trên các thiên thần và loài người, trên cả loài ma quỷ và toàn thể các thụ tạo không có lý trí – sau cùng, Con đặt Người làm Chủ kho ban phát hết mọi của cải trên trời dưới đất, và tất cả những gì Người định đoạt trong Giáo hội, đều được xác nhận ở cả trên trời”.

Đấy là đại ý bản chúc thư Chúa di lại cho loài người. Bản chúc thư này được giấu kín và cất giữ trong Trái Tim Mẹ Maria, để được thực hiện tuỳ thời gian.

Thánh Giá vừa là ngai vương đế của Chúa Giêsu, vừa là toà giảng Chúa dậy khoa học sự sống bằng cách thêm vào giáo thuyết của Ngài một mẫu gương Ngài làm, nên, trước hết, Ngài tuyên bố một lời chứa đựng đức ái ở cao độ tuyệt vời: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Như vậy là Ngài đã yêu thương cừu địch của Ngài, không những tha thứ cho họ, mà còn bào chữa cho họ, ngay trong lúc họ tỏ ra tàn ác đến độ cao nhất đối với Ngài.

Nghe lời ấy, một trong hai tên đạo tặc tên là Dimas, đã hiểu ra chút ít tình thương nhân hậu của Chúa, và nhờ có Mẹ Maria cầu xin cho, y được soi sáng trong tâm hồn, nhận ra Người chịu đóng đanh bên y là Đấng Cứu Thế. Cho nên, sau khi tự trách mình và quở trách tên đồng bạn với mình vì đã phạm thượng, y kêu lên với Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa nhớ đến con khi Chúa vào nước Chúa”. Và Chúa Giêsu đã trả lời: “Ngay hôm nay, con sẽ được vào cõi phúc”, tức là u ngục, nơi mà Ngài sắp tới để mang nguồn vui Thiên đàng đến cho. Sau cuộc ban ân sủng chinh phục đó, Chúa Giêsu thưa với Mẹ Ngài: “Thưa Bà, con Bà đây này”. Chúa chỉ nói tiếng “Bà”, để tự tước bỏ niềm an ủi đi liền với tiếng “Mẹ” rất dịu dàng trong lúc đau đớn ấy vì loài người, nhưng trong thâm tâm, Chúa thêm rằng: “Mẹ là Phụ Nữ hạnh phúc hơn hết các phụ nữ, luôn luôn trung thành yêu mến Con, luôn luôn ân cần phụng sự Con, giờ đây, Con sắp sửa về với Cha của Con, Con không sống với Mẹ nữa, nhưng môn đệ dấu yêu của Con sẽ phục vụ Mẹ như Con phục vụ Mẹ”. Từ lúc ấy, Mẹ Maria đã nhận thánh Gioan làm con mình với một niềm tùng phục khiêm nhượng. Chúa Giêsu cũng nói với thánh Gioan: “Mẹ của con đây này!” Qua lời ấy, thánh Gioan nhận được nhiều ánh sáng mới về những vẻ cao trọng của Mẹ Maria, để phục vụ Mẹ cách hoàn hảo hơn.

Vào lúc khoảng ba giờ, Chúa Giêsu kêu lên một tiếng hiển hách bằng ngôn ngữ Hi-bá rằng: “Ôi Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ rơi tôi?” Bấy giờ Ngài đặc biệt nhìn thấy những kẻ bị trầm luân: sự chúng phải xa lìa Ngài đời đời, sau khi Ngài chịu biết bao đau khổ cho chúng như vậy, làm cho Ngài rất đau đớn, đau đớn như ở vườn Cây Dầu trong đêm vừa qua.

Để chứng tỏ tâm tình khao khát cho mọi người được cứu rỗi, Ngài kêu lên lời thứ năm: “Ta khát!” Thật ra, những đau khổ Ngài chịu trong cuộc Tử Nạn rất có thể gây cho Ngài một sự khát nước tự nhiên, nhưng đó không phải là duyên cớ để Ngài kêu khát. Khát đây là Ngài khát các linh hồn. Chỉ một mình Mẹ Maria mới hiểu như thế. Còn bọn lý hình hiểu theo nghĩa thường, nên chúng muốn thoả tính cười nhạo của chúng mà lấy một cái bọt bể, thấm vào mật đắng và dấm chua, cắm vào đầu một cái gậy, nâng lên tới miệng Ngài. Muốn làm trọn lời tiên báo của tiên tri Đavít, Chúa Giêsu đã uống một chút để tỏ ra rằng Ngài dung nhận số phận của những kẻ bị trầm luân; song Ngài đã ngừng lại ngay vì lời Mẹ rất thống thiết của Ngài cầu xin.

Cho nên, sau cùng, Ngài ngước mắt lên trời nói lời thứ bảy: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha”: Con đã từ Cha ra đi cốt để nhận một cuộc sống chết chóc, bây giờ Con bỏ nó mà trở về với Cha. Sau lời cuối cùng này, Ngài gục đầu xuống và trút linh hồn.

Với tư cách là Mẹ Đấng Cứu Thế và là Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, Mẹ Maria không những thấu hiểu tất cả những mầu nhiệm ấy, mà còn cảm thấy tất cả những đau khổ trong cuộc Chúa Tử Nạn. Đau khổ vì cái chết của Con Mẹ dằn vật Mẹ hơn tất cả những đau khổ khác, và còn vượt trên tất cả những đau khổ loài người phải chịu từ thuở tạo thành trời đất. Nếu Mẹ không chết vì cái chết ấy, đó là do một phép lạ vĩ đại hơn tất cả các phép lạ đã gìn giữ Mẹ trong suốt cuộc Tử Nạn. Để ân thưởng cho sự đau đớn sau cùng này, Thiên Chúa làm cho chút hữu thể trần gian từng đã hoạt hoá Thân xác đồng trinh của Mẹ nên thiêng liêng cách đặc biệt hơn nữa.

Mẹ cũng được ân thưởng vì đã muốn cho vạn vật đảo lộn bấy giờ. Trời đất xáo động, các tầng trời ngưng vận chuyển, trái đất run giùng, núi non vỡ lở, đá vỡ ra tan nát; mồ mả mở tung; màn trong Đền Thờ xé đôi. Nhiều người xúc động trước những biến cố lạ lùng ấy đã nhận biết Chúa Giêsu là thánh, chẳng hạn như ông bách quân trưởng, và nhiều người khác, vừa từ núi Can-vê trở về vừa đấm ngực hối hận. Nhưng người Dothái ở Giêrusalem bấy giờ mặc dầu kinh hoàng, họ cũng không chịu mở mắt nhìn nhận sự thật mà cả vạn vật vô linh đều tuyên nhận qua những đảo lộn khác thường ấy.

Luxiphe và chúng quỷ mà Mẹ Maria đã bắt phải ở lại, bị vón lại như một lũ sâu bọ, đứng thất kinh bất động gần Thánh Giá. Lúc ấy, chúng phải chịu những cực hình rất khốn nạn, chỉ muốn chui xuống hoả ngục cho rồi. Nhưng không thể được. Và khốn cho chúng là cứ mỗi lời Chúa phán từ Thánh Giá là chúng lại phải bẽ bàng khổ sở. Cực nhất là lời: “Thưa Bà, con Bà đây này”, và “Đã hoàn tất”. Sau lời “thưa Bà,” Luxiphe mới nhận ra rõ ràng Mẹ Maria là Đức Nữ Thiên Chúa đã cho y thấy trên trời trước khi y sa ngã. Bấy giờ y và chúng quỷ mới cào cấu nhau, cắn xé nhau, giận dữ như một đàn dã thú; nhất là y càng căm giận Mẹ hơn, nhưng chẳng làm gì được nữa. Y nhục nhã quá muốn hoá ra khói mà bay đi cho khuất, nhưng không sao được. Sau lời “Đã hoàn tất”, đồng ý với Chúa Giêsu, Mẹ Maria xô chúng quỷ xuống hoả ngục. Chúng bị nhục nhã trong đó hết mức, đứa nào cũng muốn tìm một xó kẹt sâu kín nhất mà chôn mình vào. Chúng nhận ra chắc chắn Thần Tính Chúa Giêsu Kitô, hiệu quả ơn Cứu Chuộc, những cao trọng của Mẹ Maria, quyền lực mà các linh mục được thông phần với Chúa Cứu Thế để chống lại chúng và để giúp đỡ những người lành. Càng nhận ra, chúng càng căm hờn phẫn nộ. Chúng tìm những phương thế mới để báo thù Thiên Chúa và loài người. Chúng quyết gieo rắc nhiều tội lỗi để gặt hái những kẻ trầm luân. Chúng thúc giục nhau duy trì việc thờ ngẫu tượng nơi loài người, tìm ra những lạc giáo, hủ hoá tuổi trẻ, xáo trộn đời sống hôn nhân, bách hại người lành, giục người ta đừng chịu các nhiệm tích, dập tắt lòng đạo đức, nhất là xui người ta quên ơn Cứu Chuộc của Chúa, coi thường sự cầu bầu của Mẹ Maria, đừng chạy tới cầu xin Mẹ, đừng tôn kính Mẹ. Để làm những việc ấy, một mặt chúng quyết định dùng các vua chúa, các nhà cầm quyền làm tay sai để bắt bớ Giáo hội, một mặt chúng nhất định dùng những linh mục làm dụng cụ để gieo rắc lầm lạc vào kho đức tin tinh ròng của Giáo hội, tạo ra những bè rối và bè đảng, để chia rẽ Giáo hội của Chúa về những tín lý và hợp nhất. Chúng quỷ đã dành hẳn một năm trời để bàn bạc và quyết nghị những kế hoạch gian hiểm ấy. Từ đó tới nay, chúng đã cuồng loạn bành trướng ác tâm của chúng như thế nào, ta đều đã biết.

Về phần Mẹ Maria, Mẹ vẫn đứng bên Thánh Giá, vững vàng như một cột đồng trụ giữa muôn lớp sóng đau khổ mãnh liệt hãi hùng. Tâm trí Mẹ suy niệm trong tri thức hết sức thâm thuý những mầu nhiệm Cứu Chuộc, ca tụng hoà điệu lạ lùng sự khôn ngoan Chúa đã xếp đặt trong việc Cứu Chuộc ấy. Càng hiểu thấu ơn Cứu Chuộc trời bể bao la, Mẹ lại càng đau đớn vì thấy trước những bội bạc của loài người. Niềm đau này là niềm đau lớn lao nhất của Mẹ.

Nhưng Mẹ cũng không quên cẩn trọng lo đến việc an táng Con chí thánh Mẹ. Trong nỗi bối rối mà Thiên Chúa hữu ý gây nên cho Mẹ, Mẹ khiêm nhượng hỏi các thiên thần hầu cận cho biết phải làm thế nào để tháo Di Thể Chúa Giêsu xuống khỏi Thánh Giá, phải mai táng Chúa nơi nào cho xứng đáng. Nhưng các thiên thần trả lời Mẹ rằng: xin Mẹ cứ chuẩn bị tâm hồn để chịu một đau khổ nữa đã. Luật không cho phép tháo xác tội nhân tử giá xuống khi chưa có phép quan trên. Mặt khác, Chúa còn muốn đổ tới giọt máu cuối cùng cho loài người.

Câu trả lời ấy càng làm tăng thêm nỗi xao xuyến bình thản của Mẹ. Một lát sau, thấy tiến lên đồi Canvê một bọn người có võ trang, Mẹ nói với thánh Gioan và ba bà Maria rằng: “Mẹ đau khổ thật đến mức rồi. Người ta còn đến hành hạ Xác Thánh Con Mẹ nữa kia kìa!” Lúc ấy đã là chiều áp ngày Sa-bát đại lễ. Để chuẩn bị mừng lễ mà không phải bận tâm gì với mấy tử tội, người Dothái đến xin với Philatô cho phép họ đập giập ống chân ba người tử tội để họ chóng chết mà tháo xác xuống ngay chiều hôm ấy. Viên trấn thủ bằng lòng. Bọn lính đến đập giập ống chân hai kẻ ác phạm còn sống, nhưng Chúa Giêsu, thấy Ngài đã chết, chúng không đập ống chân Ngài nữa. Nhưng một người lính tên là Longinô, muốn chắc Chúa Giêsu đã chết thật, đã đến gần Chúa, phóng chiếc đòng lên, cắm vào ngực Chúa. Đòng cắm vào thấu Trái Tim Chúa, liền có Nước và Máu chảy ra, như thánh Gioan chứng kiến đã thuật lại trong Phúc Âm của ngài.

Mẹ Maria lúc ấy cũng bị đâm thâu vào Trái Tim bằng một sự đau đớn y như chịu một lưỡi đòng cắm vào, và cái đau của linh hồn Mẹ còn nhức nhối hơn nữa. Nhưng, cảm thương Longinô, Mẹ nói với anh ta: “Xin Thiên Chúa ghé mắt nhân từ thương nhìn đến anh, vì nỗi đau khổ anh vừa gây cho tôi”. Chúa Giêsu nhận lời cầu khoan dung ấy của Mẹ: mấy giọt Máu và Nước từ nơi Trái Tim Chúa chảy ra bắn lên khuôn mặt khô cằn của người lính đó. Mắt anh ta vốn kém, gần như chỉ một mắt còn sáng, nhưng Nước và Máu ấy đã làm anh ta sáng luôn cả hai mắt, đồng thời con mắt linh hồn anh cũng được soi sáng, mở ra nhìn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà anh đã đả thương một cách dã man. Anh than khóc tội mình, tuyên xưng đức tin của anh vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu Thế thật. Người Dothái rất xấu hổ và căm giận anh.

Mẹ Maria hiểu ý nghĩa của mầu nhiệm vết thương đòng thấu Trái Tim Chúa ấy: Chính từ vết thương ấy đã sinh ra Giáo hội mới Chúa lập với muôn muôn thác nguồn ân sủng. Mẹ sáng tác một ca khúc chúc tụng vinh quang Chúa Giêsu, để mừng tạ những sự kiện cao cả ấy. Trong lúc đó, chiều cứ lên dần, mà Mẹ chưa biết sẽ an táng Con Mẹ ở đâu: một nỗi băn khoăn trùm kín lòng Mẹ. Ngước mắt lên trời, Mẹ cầu xin Cha hằng hữu ban ánh sáng soi cho Mẹ và giúp phương tiện an táng Chúa.

Một lát sau, từ chân đồi tiến lên một bọn người có vác thang và những dụng cụ khác. Thấy thế, Mẹ Maria hốt hoảng, ngờ là họ lại lên làm khổ cho Thi Thể Chúa Giêsu. Mẹ nghẹn ngào nói với ông Gioan: “Con ơi! Những người đó lại lên đây làm gì thế?” Ông Gioan ngước mắt lên nhìn kỹ rồi đáp: “Thưa Mẹ, không hề gì đâu. Đấy là ông Giuse người Arimathê và ông Nicôđêmô, với gia nhân của họ. Họ là thân hữu và môn đệ của Thầy”.

Ông Giuse sinh trưởng từ một dòng tộc quý phái, đang giữ chức quan cao ở thành Giêrusalem. Ông có địa vị trong Hội Đồng Cộng Toạ, nhưng không bao giờ đồng ý với Hội Đồng trong việc luận giết Chúa Giêsu. Ông can đảm đến xin Philatô cho ông được phép an táng Chúa Giêsu, Đấng mà ông từng xưng nhận là Thiên Chúa. Philatô nể chức vụ của ông, không dám chối từ. Để có người cộng tác, ông đi nói với ông Nicôđêmô là người cũng tin Chúa Giêsu. Ông Nicôđêmô là một nhà bác học, thông thạo văn chương và Thánh Kinh, đã từng đến nghe Chúa giảng ban đêm. Ông Giuse mua một khăn liệm trắng, loại hàng rất tốt; còn ông Nicôđêmô đem gần một trăm cân hương liệu vẫn sử dụng vào việc khâm liệm những bậc quyền quý. Không những có các gia nhân của hai ông theo lên núi Can-vê, mà còn có cả nhiều người từng được nhờ ơn Chúa ban, cũng lên núi bấy giờ.

Khi lên tới đỉnh núi Can-vê, nhìn thấy Mẹ Maria đứng âu sầu bên Thánh Giá, hai ông xúc động ngây người, quên cả chào hỏi Mẹ, cả hai cùng phủ phục dưới chân Mẹ, không cầm nổi được nước mắt, không thốt lên được một tiếng nào. Hai ông cứ phủ phục như thế mà khóc tấm tức nghẹn ngào. Cho tới lúc Mẹ Maria nâng dậy, an ủi và khuyến khích mới nguôi đi được. Bấy giờ hai ông mới lên tiếng chào kính Mẹ, tỏ lòng phân ưu rất khiêm tốn và bày tỏ ý định của mình. Mẹ cảm ơn lòng đạo hạnh của hai ông, và đoan chắc Thiên Chúa sẽ thưởng công hai ông bội hậu. Ông Giuse thưa lại rằng: “Kính lạy Đức Mẹ rất kính mến, nghe lời Đức Mẹ nói, chúng con cảm thấy trong tận đáy lòng chúng con nguồn ơn, vừa êm dịu vừa mạnh mẽ, của Thần Trí Chúa đổ đầy tràn lòng chúng con những tâm tình rất thân thiết, chúng con không thể nào đáng được và diễn tả ra”.

Sợ rằng Mẹ sẽ phải quá đau đớn khi tháo Xác Chúa xuống, hai ông xin Mẹ tạm lui ra xa một chút. Nhưng Mẹ trả lời rằng không sao, lúc Chúa Giêsu chịu đóng đanh mà Mẹ còn đứng bên được, lúc tháo Xác thánh Chúa xuống, Mẹ cũng xin cho được ở gần bên. Quả thật, nhìn thấy Thân Xác Chúa bị tan nát như thế, Trái Tim Mẹ bị xé nát nhừ, nhưng càng được nhìn thấy Chúa gần hơn, đau khổ của Mẹ càng dịu đi hơn. Hai ông liền sẵn sàng tháo Xác Chúa xuống. Bắc thang lên dựa vào Thánh Giá, hai ông bắt đầu bỏ mạo gai ra vừa cung kính vừa khóc đặt vào tay Mẹ Maria. Mẹ quỳ xuống đón nhận, dâng lòng sốt sắng lạ lùng thờ lạy mạo gai, hôn kính thắm thiết và để nước mắt rơi đầy; Mẹ áp mạnh mạo gai lên môi, một số gai đâm thủng môi miệng Mẹ. Mẹ lại cầu xin Cha hằng hữu giục lòng người ta luôn luôn hết sức tôn kính những chiếc gai đã được Máu Thánh Con Mẹ thánh hiến ấy. Và những đanh sắt thâu qua chân tay Chúa, Mẹ cũng tỏ lòng cung kính với tâm tình thiết tha và thờ lạy như vậy. Những người ở bên Mẹ bấy giờ tất cả đều quỳ gối thờ lạy mạo gai và đanh sắt thánh theo gương Mẹ.

Khi hai ông đã hạ Xác thánh Chúa xuống, Mẹ cung kính quỳ gối xuống đón nhận lên hai cánh tay đã trải khăn liệm trắng của Mẹ. Ông Gioan đứng phía đầu Chúa, bà Mađalêna đứng phía chân, giúp ông Giuse và ông Nicôđêmô đem Xác Thánh từ Thánh Giá xuống. Rồi cả bốn người sầu thương, đôi mắt tràn lệ, hết sức cung kính đặt lên tay Mẹ. Niềm cảm thương xoáy sâu vào tâm hồn Mẹ vừa tràn ra một đau khổ đến tuôn lệ máu, vừa khơi dậy một vui mừng vì chiếm lại được báu tàng thần linh của Mẹ. Sau khi thờ lạy Xác rất thánh Chúa rồi, Mẹ ngồi xuống, ẵm Xác Chúa trên cánh tay cho các thiên thần, thánh Gioan và tất cả những người khác lần lượt theo thứ tự thờ lạy rất cung kính thiết tha.

Sau đó, ông Gioan và ông Giuse xin phép Mẹ để khâm liệm Xác thánh Chúa mà an táng. Đặt Xác thánh Chúa trên khăn liệm, các ông xức hương thơm khắp mình Chúa, rồi đặt trong một quan tài để đưa vào phần mộ. Mặc dầu rất đau khổ, Mẹ cũng chăm chú đến từng chi tiết nhỏ. Mẹ mời gọi một số rất đông thiên thần từ trời xuống hợp với các thiên thần hầu cận Mẹ, dự lễ an táng Đấng Sáng Tạo họ. Các thiên thần mặc hình người đến dự ngay, nhưng chỉ có một mình Mẹ nhìn thấy. Cuộc hành tống bắt đầu. Ông Gioan, ông Giuse, ông Nicôđêmô và viên bách quân trưởng trở lại làm đô tuỳ khiêng quan tài. Mẹ Maria, ba bà Maria và một số người tin Chúa theo sau. Những người này đã lên núi Can-vê sau khi nghe tin ông Longinô đâm Trái Tim Chúa và các ông Giuse, Nicôđêmô lên tháo Xác Chúa. Đám tang âu sầu lặng lẽ đi sang một khu vườn của ông Giuse, giáp bên chân đồi Can-vê, trong vườn này, có một cái hang khum cao, ông Giuse đã cho làm trong đó một ngôi huyệt, huyệt này chưa táng ai. Các ông đã táng Chúa trong huyệt ấy. Mẹ Maria và cả đoàn người theo sau đến thờ lạy Chúa một lần nữa. Trước khi ra về, các ông vần một tảng đá lớn lấp cửa hang, như Phúc Âm thuật lại.

Khi cửa mồ Chúa Giêsu vừa được lấp lại, những ngôi mộ đã mở ra lúc Chúa chịu chết cũng tự đóng lại, như là những mộ ấy đã mở ra để đón Chúa vào tạm nghỉ. Theo ý muốn của Mẹ, nhiều vị thiên thần ở lại bên mồ Chúa. Còn tất cả những người dự đám tang đều trật tự và lặng lẽ trở lại núi Can-vê, thờ lạy Thánh Giá một lần nữa, sau khi Mẹ Maria đã tôn thờ.

Lúc ấy mặt trời đã lặn. Mẹ Maria từ núi Can-vê trở về nhà Tiệc ly, có cả đoàn người đáng kính ấy đi theo. Mẹ vào nhà với ông Gioan, ba bà Maria và bạn hữu của họ. Còn những người khác từ giã Mẹ về nhà mình, sau khi đã sụt sùi xin Mẹ ban phép lành. Mẹ cảm ơn họ vì đã đến chia buồn với Mẹ và giúp táng Xác Con Mẹ. Họ ra về với lòng tràn đầy ân sủng bên trong, và cảm động vì đức hiền từ khiêm tốn của Mẹ.

Người Dothái bối rối trước đám tang của Chúa. Nhớ lại lời Chúa đã nói trước là Ngài sẽ sống lại ba ngày sau khi chết, họ đến xin Philatô cho đặt lính canh mồ Chúa. Nhưng sự đề phòng nham hiểm của họ chỉ làm vững vàng thêm phép lạ lẫy lừng Phục Sinh mà Ngài đã báo trước. Thật chẳng có ý muốn nào chống lại được Thiên Chúa cả (Pr 21,30).

LỜI MẸ HUẤN DỤ

Hỡi con, Mẹ muốn từ nay con hãy sống như đã chịu tử nạn thập giá với Chúa Giêsu, trở nên tương tự Đấng làm mô phạm đáng tôn thờ, bằng cách con chết khỏi đời sống trần gian. Loài người đã sống xa gương mẫu ấy biết bao. Họ tìm cách làm cho luật Chúa giảm bớt đi cho dễ chịu, và mặc cả phần rỗi họ để mua nước trời với một giá rẻ, liều mất luôn nước ấy. Thật là ảo tưởng nguy hại! Con phải luôn thắng lướt mối sợ hãi những nghiêm khắc của Thánh Giá, sao cho lúc nào cũng thực hành những gì khắc khổ nhất mà việc tuyên khấn của con bày tỏ ra. Con phải thích những bó buộc nhỏ mọn nhất của bậc con hơn tất cả mọi tiện nghi của trần tục.

Quả thật, ma quỷ càng căm giận vì những điều con đã viết ra về nó, nó càng cố gắng gian giảo để làm con lạc xa tâm tình ấy. Con ngạc nhiên vì nó đã bị Chúa Giêsu đánh cho tơi bời như vậy, mà còn có thể bành trướng quyền hành của nó trên thế giới rộng đến thế. Nhưng ở thời sơ khởi của đạo Chúa, không như vậy đâu. Các tín hữu thời ấy rất xúc động vì cuộc Tử Nạn của Chúa, vì tình thương và gương sáng của Chúa, họ đã thực hành những nhân đức anh hùng nhất, và ma quỷ không hề dám đến gần họ, nhất là không dám đến gần các Tông đồ. Ngày nay người ta đã lìa bỏ con đường Thánh Giá, để theo đường thoả mãn xác thịt: do đó mà Satan mới thống trị. Để con khỏi bị lôi cuốn vào con đường trầm luân này, con hãy đau đớn khóc than vì các linh hồn hư mất, hãy suy niệm những mầu nhiệm Nhập Thế và Tử Nạn của Chúa. Sự nhớ đến các mầu nhiệm ấy làm cho lũ đầu đảng hoả ngục phải kinh hồn.

Con cũng đừng quên vào ẩn náu trong Trái Tim của Thầy Chí Thánh con. Chúa đã muốn cho lưỡi đòng mở Trái Tim Chúa ra mãi mãi cho loài người, để họ đến kín múc ở nguồn mạch ấy tình yêu dịu dàng của Ngài, và để họ cư ngụ trong đó như trong một nơi ẩn trú an toàn nhất.

Sau cùng, con hãy nhìn ngắm sự việc xảy ra ở núi Can-vê mà học cho biết tin cậy ở Chúa Quan Phòng. Lúc Mẹ không biết làm cách nào khác để táng Xác Con Mẹ, Chúa Quan Phòng đã soi cho ông Giuse và ông Nicôđêmô làm việc ấy. Hai ông đã được phần thưởng trọng hậu vì dễ ngoan ngoãn vâng theo. Đó là trật tự lạ lùng Chúa Quan Phòng vẫn vui giữ khi xử sự. Muốn cho những người này được công nghiệp, Chúa Quan Phòng thường hay nhờ những người kia chịu đau khổ. Chúa cũng tu sửa những sỉ nhục người ta nhẫn nại chịu như vậy. Thế nên, sau khi chịu nhục hình trên Thánh Giá, Chúa Cứu Chuộc liền được tôn kính thờ lạy và được mai táng cách rất vinh dự uy nghi.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *